Giá than nhiệt lượng CV 6.000 của Nam Phi tăng lên 106-108 USD/tấn trong bối cảnh thị trường châu Âu tăng trưởng cùng với nhu cầu từ Châu Á Thái Bình Dương, bao gồm cả Việt Nam.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay đối với than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo vẫn hầu như không thay đổi ở mức 124 USD/tấn do hoạt động giao dịch chậm lại liên quan đến lễ kỷ niệm Tuần lễ Vàng trong khoảng thời gian từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 10.
Giá than tại Indonesia biến động theo hướng trái chiều vào tuần trước: 5.900 GAR không đổi ở mức 92 USD/tấn, trong khi giá 4200 GAR CV thấp giảm xuống còn 51 USD/tấn. Áp lực được tạo ra bởi nguồn cung mạnh, do điều kiện thời tiết thuận lợi và nhu cầu yếu từ Ấn Độ, nơi báo cáo lượng hàng tồn kho cao tại các cảng biển.
Than nhiệt lượng CV 6.000 của Úc tăng lên trong khoảng 140-142 USD/tấn, cho thấy mức tăng trưởng vừa phải nhờ nhu cầu ổn định ở Châu Á Thái Bình Dương và các biện pháp kích thích được công bố cho nền kinh tế Trung Quốc.
Chính phủ Úc đã công bố dự báo về xuất khẩu than nhiệt của nước này vào năm 2025, điều chỉnh giảm từ 208 triệu tấn xuống còn 198 triệu tấn. Các nhà chức trách cũng dự kiến doanh thu xuất khẩu than sẽ giảm gần 22%.
Chỉ số than luyện kim HCC của Úc đã mở rộng mức tăng mạnh trên 200 USD/tấn trong bối cảnh các biện pháp kích thích ở Trung Quốc. Sự hỗ trợ bổ sung đến từ sự phục hồi của chỉ số PMI, cho thấy hoạt động sản xuất cao hơn ở Trung Quốc.
 

Nguồn: Vinanet/thecoalhub.com/