Than nhiệt lượng 6.000 CV của Nam Phi tăng do giá than tăng ở Châu Âu, cũng như nhu cầu ổn định từ Ấn Độ và Pakistan.
Nhà điều hành Transnet của Nam Phi có kế hoạch tiến hành bảo trì tuyến đường sắt đến cảng vịnh Richard Bays (RBCT) từ ngày 11 đến ngày 20 tháng 7. Do đó, việc bốc hàng lên RBCT sẽ bị đình chỉ và các chuyến hàng sẽ được thực hiện bằng cách sử dụng kho dự trữ.
Tại Trung Quốc, giá than giao ngay 5.500 NAR tại cảng Qinhuangdao giảm 7 USD/tấn xuống 122 USD/tấn do giá trong nước tiếp tục giảm, do nhu cầu từ các nhà máy điện và công nghiệp yếu hơn, cũng như thời tiết ấm hơn và hàng tồn kho cao. Tiêu thụ than tại các nhà máy điện giảm 9% kể từ đầu tháng. Hơn nữa, Shenhua, một bộ phận của China Energy, đã giảm giá ở tỉnh Nội Mông 2,5 USD/tấn vào ngày 14 tháng 3. Một số thương nhân Trung Quốc dự đoán xu hướng giảm sẽ tiếp tục kéo dài thêm 2-3 tuần nữa.
Giá than 5.900 GAR của Indonesia giảm 1 USD/tấn xuống còn 93 USD/tấn do giá cước vận tải cao và giá nội địa ở Trung Quốc giảm. Áp lực lên giá cũng được gây ra bởi lượng tồn kho cao ở Ấn Độ, tăng 3% trong tuần qua và đạt mức cao lịch sử 48 triệu tấn, do nguồn cung trong nước tăng. Ngoài ra, sự biến động cao dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa giá cung và cầu.
Giá than CV 6.000 tại Úc đang dao động trong khoảng 123-125 USD/tấn.
Giá cả đang chịu áp lực do hoạt động thị trường giao ngay chậm lại, do yếu tố mùa vụ, cũng như giá cước vận chuyển cao và không ổn định. Giá thấp hơn ở thị trường nội địa Trung Quốc dẫn đến tình trạng trong một số trường hợp, người mua Trung Quốc đang cố gắng đàm phán lại giá theo các thỏa thuận đã ký kết.
Chỉ số than luyện kim của Úc đứng ở mức 245 USD/tấn.
Ngân hàng đầu tư Australia Macquarie dự báo giá than cốc trung bình ở mức 300 USD/tấn vào cuối năm nay. Các nhà phân tích cho rằng điều này là do thị trường yếu hơn so với năm ngoái, chủ yếu là do nguồn cung cải thiện trong thời gian tới. Macquarie cũng dự kiến xuất khẩu than từ Australia sẽ tăng lên 160 triệu tấn trong năm nay.
 

Nguồn: thecoalhub.com