Tuần trước, chỉ số than nhiệt trên thị trường châu Âu tăng vọt lên gần 125 USD/tấn, được hỗ trợ bởi lượng dự trữ giảm và giá khí đốt biến động gia tăng.
Than nhiệt lượng CV 6.000 của Nam Phi gặp phải ngưỡng kháng cự ở mức 100 USD/tấn, Than nhiệt lượng CV 5.500 đã vượt qua mốc 90 USD/tấn, theo sau các chỉ số cao hơn ở châu Âu và được hỗ trợ bởi nhu cầu ổn định từ Ấn Độ và Pakistan.
Các chuyến hàng than đường sắt hàng tuần trên tuyến chính Transnet đến Cảng than Richards Bay (RBCT) đã cải thiện lên mức cao 1,2 triệu tấn, được thấy trong năm tài chính 2023/2024 (kết thúc vào ngày 31 tháng 3). Tổng cộng 1,4 triệu tấn đã được vận chuyển qua tuyến Hành lang phía Bắc đến thị trường trong nước và xuất khẩu, tăng so với mức cao nhất trong tháng 6 đạt được trong năm tài chính 2023/2024. Nếu Transnet có thể duy trì các chuyến hàng than hàng tuần đến nhà ga RBCT ở mức hiện tại (1,2 triệu tấn), tổng khối lượng vận chuyển đường sắt sẽ là 60 triệu tấn trong năm tài chính 2024/2025.
Tại Trung Quốc, giá than giao ngay 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo giảm 1 USD/tấn xuống 121 USD/tấn do nhu cầu từ các nhà máy điện và công nghiệp giảm, cũng như nhiệt độ ấm lên và lượng dự trữ cao. Hơn nữa, việc giảm giá của công ty kinh doanh Zhujiang Investment tại các cảng phía Nam đã tạo thêm áp lực. Ngoài ra, Shenhua dự kiến sẽ giảm báo giá một lần nữa để giảm bớt hàng tồn kho.
Than CV 6.000 của Australia tăng lên trên 125/tấn.
Báo giá than luyện kim của Australia giảm xuống dưới 245 USD/tấn, do cung vượt cầu. Giá thấp hơn đã thúc đẩy người tiêu dùng Indonesia bắt đầu quan tâm mua hàng. Bên cạnh đó, một số công ty Trung Quốc giảm giá than cốc.

Nguồn: thecoalhub.com