Các nhà phân tích hàng hóa Kpler đánh giá xuất khẩu tất cả các loại than ở mức 8,48 triệu tấn trong tháng 2/2024, cao hơn một chút so với 8,37 triệu tấn của tháng 1. Tuy nhiên, trước đó trong 6 tháng giảm liên tiếp và xuất khẩu trong tháng 2 cũng thấp hơn khoảng 21,6% so với mức 10,81 triệu tấn của tháng 2 năm 2023.
Các công ty khai thác than ở Nga chuyển từ bán chủ yếu sang châu Âu sang các thị trường ở châu Á sau cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine vào tháng 2 năm 2022.
Xuất khẩu than của Nga sang châu Á đạt đỉnh 14,69 triệu tấn vào tháng 4/2023. Phần lớn sự gia tăng này la do khi Nga tăng cường xuất khẩu sang Ấn Độ, nước nhập khẩu than lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc.
Tuy nhiên, than nhiệt của Nga đang gặp khó khăn hơn trong việc cạnh tranh về giá với các loại than đối thủ từ các nhà xuất khẩu lớn của châu Á là Indonesia và Australia, cũng như Nam Phi, nơi được biết đến là nhà cung cấp than lớn cho cả châu Âu và châu Á.
Theo số liệu của Kpler, xuất khẩu than nhiệt của Nga sang Ấn Độ giảm xuống còn 557.935 tấn trong tháng 2, giảm từ mức 1,06 triệu trong tháng 1 và là tháng yếu nhất kể từ tháng 11/2022.
Không chỉ chi phí vận chuyển hàng hóa cao hơn đang ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu than nhiệt của Nga sang Ấn Độ, mà giá nhiên liệu cạnh tranh từ các nhà cung cấp khác cũng giảm trong những tháng gần đây.
Than của Indonesia có hàm lượng năng lượng 4.200 kilocalories/kg (kcal/kg), theo đánh giá của cơ quan báo cáo giá hàng hóa Argus, ở mức 58,17 USD/tấn. Loại than này giữ ở mức khoảng 58 USD/tấn kể từ tháng 11, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức đỉnh năm 2023 là 87,55 USD vào tháng 1.
 

Nguồn: VITIC/Reuters