* Dầu thô Brent giảm giá 2% lần thứ 2 trong tuần
    * Vàng và hầu hết nông sản cũng giảm giá, cacao thấp nhất kể từ 2009
    * Thị trường chờ đợi thông tin về giá sản xuất tại Mỹ

(VINANET) – Giá dầu giảm lúc đóng cửa phiên giao dịch đầu tuần, 14/11 (rạng sáng 15/11 giờ VN) sau khi các chính phủ mới của Italia và Hy Lạp thất bại trong việc trấn an nỗi lo về khủng hoảng nợ châu Âu, gây áp lực lên thị trường hàng hóa.

Các thị trường hàng hóa lại bước vào giai đoạn biến động mới. Dầu thô Brent tại London giá giảm 2% lần thứ 2 trong tuần, sau khi Thủ tướng Đức Angela Merkel cảnh báo rằng châu Âu có thể đang sống trong những giờ phút khó khăn nhất kể từ Thế chiến thứ 2.

Sản xuất công nghiệp của 17 nước thành viên khu vực đồng euro giảm 2% trong tháng 9 so với tháng 8, làm gia tăng lo ngại về nguy cơ suy thoái khối này.

Khả năng nhà lãnh đạo tài chính của Italia từ chức và thủ tướng mới của Hy Lạp sẽ phải đối mặt với một sự thử thách mới để khẳng định niềm tin khiến nhiệt huyết của giới đầu tư bị xói mòn.

“Những vấn đề của châu Âu đang ảnh hưởng nặng nề tới các thị trường”, Christophe Barret, nhà phân tích dầu mỏ của Credit Agricole nhận định, và thêm rằng những số liệu công nghiệp yếu kém, khủng hoảng chính trị và lợi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm của Italia cao nhất kể từ khi đồng euro ra đời cùng lúc gây áp lực lên thị trường.

Đồng USD mạnh cũng đè nặng lên thị trường hàng hóa và tiền tệ. Chỉ số Reuters-Jefferies CRB mất giá 0,7% so với phiên giao dịch trước.

Sau khi tăng khá mạnh trong nửa đầu năm, CRB đã sụt giảm mạnh mẽ vào nửa cuối năm. Riêng trong tháng 9, CRB mất giá 13%, mạnh nhất kể từ năm 2008, trước khi hồi phục 7% trong tháng 10, nhờ giá dầu tăng – thành phần chính trong chỉ số này.

Từ đầu tháng đến nay, CRB đã giảm một nửa điểm phần trăm.

Trong phiên đầu tuần, vàng và đa số các nông sản đồng loạt giảm giá theo dầu mỏ. Tuy nhiên, đồng lội ngược dòng tăng giá, nhờ những dấu hiệu tích cực từ ngành ô tô Trung Quốc hậu thuẫn thị trường kim loại vững giá.

Dầu Brent giảm giá 2,27 USD xuống 111,89 USD/thùng. Dầu thô Mỹ giảm 85 US cent xuống 98,14 USD.

Thông tin hỗ trợ giá dầu phiên vừa qua là kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng 1,5% trong quý III, báo hiệu đất nước phục hồi sau thảm họa động đất và sóng thần hồi tháng 3.

Sự chênh lệch giữa giá hợp đồng kỳ hạn tháng 12 và tháng 1 giảm bởi trong lúc khó đoán định như hiện nay.

Giá vàng thế giới điều chỉnh giảm trong phiên đầu tuần do áp lực chốt lời của các nhà đầu tư và sự phục hồi của đồng bạc xanh. Nguyên nhân chủ yếu là do sự lạc quan về khả năng Hi Lạp và Ý, với sự thay đổi mới sẽ giúp cho 2 quốc gia trên vượt qua gánh nặng nợ công đang ảnh hưởng dây chuyền lên toàn bộ khu vực EU.

Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay hạ 0,6%, xuống 1.780,3 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 12 trên sàn Comex hạ 9,7 USD, xuống 1.778,4 USD/ounce.

Tuy giá vàng điều chỉnh giảm nhẹ khi định giá bằng đồng USD nhưng nếu tính bằng đồng Euro thì giá vàng hiện tại đã trên 1.300 Euro/ounce - ở mức cao nhất trong 2 tháng gần nhất.

Cuối tháng 10, giá vàng có chuyển biến tăng nhanh khi cả thông tin từ 2 thị trường Mỹ và EU đều xấu hơn dự kiến khiến giá vàng tăng hơn 50 USD/ounce, từ mốc 1.655 USD vượt ngưỡng 1.700 USD/ounce. Vị thế “tài sản phòng thủ” của vàng lại được thiết lập từ lúc đó. Tuy nhiên, vị thế “hầm trú ẩn an toàn” của vàng không được trọn vẹn như trước đây. Giá vàng chỉ thực sự bứt phá mạnh mẽ khi cả EU và Mỹ đều cho dữ liệu kinh tế đáng thất vọng.

“Tâm điểm hiện tại là tình hình châu Âu. Những thông tin xấu hơn từ thị trường châu Âu chưa chắc đã thể hiện 1 chiều khiến giá vàng tăng điểm mà sự tăng điểm của vàng bị “chia sẻ” với trái phiếu Mỹ, ngoài ra tính thanh khoản ảnh hưởng mạnh đến giá kim loại quý trong ngắn hạn”, bản tin của Công ty Sacombank-SBJ nhấn mạnh.

Cacao tiếp tục ở mức giá thấp nhất 2 năm rưỡi, khi tiến độ thu hoạch ở Tây Phi diễn ra đúng kế hoạch và sản lượng cao.

Cacao kỳ hạn tại New York giảm 4 USD xuống 2.555 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

+/-(so theo năm)

Dầu thô WTI

USD/thùng

98,00

-0,99

-1,0%

7,2%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

111,99

-2,17

-1,9%

 18,2%

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

3,458

 -0,126

-3,5%

-21,5%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

1778,40

-9,70

-0,5%

 25,1%

Vàng kỳ hạn

USD/ounce

1779,59

-0,30

 0,0%

 25,4%

Đồng Mỹ

US cent/lb

 348,80

 2,45

 0,7%

-21,6%

Đồng LME

USD/tấn

 7760,20

 121,20

 1,6%

-19,2%

Dollar

 

 77,462

0,517

 0,7%

 -2,0%

CRB

 

317,920

 -2,280

-0,7%

 -4,5%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

633,50

-5,00

-0,8%

0,7%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

 1172,00

 6,00

 0,5%

-15,9%

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

615,75

-1,00

-0,2%

-22,5%

Cà phê Mỹ

 US cent/lb

 230,95

-3,00

-1,3%

 -4,0%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2444,00

 -45,00

-1,8%

-19,5%

Đường Mỹ

US cent/lb

24,75

-0,25

-1,0%

-22,9%

Bạc Mỹ

 USD/ounce

 34,024

 -0,658

-1,9%

 10,0%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

1642,60

-2,60

-0,2%

 -7,6%

Palladium Mỹ

USD/ounce

 664,30

 1,50

 0,2%

-17,3%

(T.H – Reuters)