* Vàng lập kỷ lục cao của năm 2010, đồng tăng giá nhẹ
    * Dầu thô tăng vượt 86 USD sau 3 phiên giảm giá
    * Cà phê, ngô và cacao giảm sau báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ

Vàng, đồng và dầu tăng giá làm thị trường hàng hoá thế giới nóng lên, kéo giá hàng hoá đồng loạt tăng theo.

Sáng 12/4/2010, vàng lập kỷ lục cao mới, kỷ lục cao của 4 tháng, khi đồng Euro tăng giá và nhu cầu tăng, trong khi platinum và palladium lập kỷ lục cao của nhiều tháng bởi dự báo nhu cầu trong lĩnh vực công nghiệp tăng lên theo đà hồi phục kinh tế.

Đồng Euro đã trở lại mức cao nhất của gần 1 tháng nay so với đồng Đôla Mỹ vào sáng nay, sau khi các nhà lãnh đạo EU nhất trí gói cứu trợ Hy Lạp.

Sáng 12/4/2010 tại Châu Á, vàng giao ngay tăng tới 1.168,70 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 4/12/2009 và cao hơn 0,5% so với giá đóng cửa chiều 9/4/2010 tại New York (1.159 USD/ounce).

Thị trường vàng đang được hậu thuẫn bởi các nhà đầu tư lại tìm về nơi trú ẩn an toàn này khi nỗi lo về sự bất ổn tài chính ở Châu Âu gia tăng. Tuần qua, vàng đã tăng giá 3%, mức tăng cao nhất kẻ từ tuần kết thúc vào ngày 10/1/2010.

Tại New York, trên bảng giao dịch điện tử, vàng kỳ hạn tháng 6 giá tăng 0,4% đạt 1.166,40 USD/ounce so với 1.161,90 USD/ounce của phiên giao dịch trước đó.

Quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới, SPDR Gold Trust, thông báo họ đang nắm giữ lượng vàng nhiều nhất từ trước tới nay, 1.141,041 tấn tính tới 9/4/2010.

Palladium giao ngay giá tăng lên mức cao nhất của 2 năm nay, 511,50 USD/ounce, trong khi platinum giá cao nhất của 20 tháng, trên 1.724 USD/ounce. Bạc tăng lên mức cao nhất kể từ 20/1, 18,53 USD/ounce.

Kim loại đồng tiếp tục xu hướng tăng giá, gần chạm tới ngưỡng 8000 USD/tấn Sở giao dịch Kim loại London, sau khi đồng Đôla Mỹ giảm giá khiến thị trường hàng hoá nóng trở lại.

Sáng nay, 12/4 theo giờ Châu Á, giá đồng kỳ hạn 3 tháng tại London tăng 65 US cent lên 7.985 USD/tấn, gần bằng mức cao nhất của 20 tháng là 8.010 USD/tấn đạt được hồi tuần trước.

Khi sàn giao dịch Thượng hải đóng cửa ngày 9/4, giá đồng tại LME đạt 7.960 USD/tấn, xác định xu hướng tăng của sáng hoom nay.

Dự trữ đồng tại LME tăng nhẹ thêm 675 tấn lên 511.925 tấn vào ngày 9/4, trong khi tại Thượng Hải tăng gần 16.000 tấn lên 169.538 tấn.

Nhu cầu đồng của Trung Quốc đang mạnh lên, với lượng nhập khẩu trong tháng 3 tăng rất nhanh bởi các nhà máy trở lại sản xuất bình thường sau kỳ nghỉ Tết.

Lượng mua những hàng hoá khác, như nhôm, quặng sắt, thép và cao su cũng tăng nhanh, trong khi nhập khẩu nhôm chưa đúc, than cốc và ngô chậm lại so với cùng kỳ năm ngoái.

Giá nhôm cũng vừa xác lập kỷ lục cao của 18 tháng. Kim loại sử dụng trong ngành vận tải và đóng gói bao bì này đã lên tới mức giá 2.406 USD/tấn vào sáng nay, so với 2.359 USD/tấn cuối tuần vừa qua. Mức đỉnh cao trong phiên giao dịch là 2.413 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 10/2008.

Cũng vào sáng nay, giá dầu mỏ tăng trở lại sau 3 phiên giảm giá. Hiện dầu gần chạm mức 86 USD/thùng, với hợp đồng kỳ hạn tháng 5 tại Mỹ giá tăng 65 US cent lên 85,57 USD/thùng. Hợp đồng này đã giảm 47 US cent xuống chỉ 84,92 USD/thùng vào lúc đóng cửa ngày 9/4/2010. Trong tuần qua, giá dầu chỉ tăng 5 US cent.

Cũng như với đồng, nhu cầu dầu của Trung Quốc trong tháng 3 rất mạnh mặc dù giá tăng. Nhập khẩu dầu thô vào nước này đạt tới 21,1 triệu tấn, hay 4,98 triệu thùng/ngày, theo số liệu của Hải quan đưa ra ngày 10/4. Nhập ròng đạt tới 20,8 triệu tấn, chỉ đứng thứ 2 sau kỷ lục cao 20,9 triệu tấn đạt được vào tháng 12 năm ngoái.

Cũng vào sáng nay, giá cao su lập kỷ lục cao mới của 20 tháng, với hợp đồng giao tháng 9 tại Tokyo giá tăng 3,6 Yên hay 1% lên 328,2 Yên/kg.

Chính phủ Thái Lan dự báo giá tham khảo cao su RSS3 của Thái Lan sẽ còn tiếp tục tăng lên kỷ lục cao 4 USD/kg vào tháng 4 này do giá nguyên liệu tăng lên kỷ lục 120 Baht/kg. Dầu mỏ cao giá càng khiến cao su tự nhiên tăng giá.

Trong khi các hàng hoá công nghiệp tăng giá thì hầu hết nông sản lại giảm giá trong tuần qua, trong đó có cà phê, ngô và cacao, bởi dự kiến sản lượng niên vụ này sẽ cao hơn tính toán ban đầu.

Chỉ số giá 19 hàng hoá Reuters-Jefferies CRB index tăng trong buổi sáng nay. Tuy nhiên trong tuần qua, chỉ số này đã giảm nhẹ do ảnh hưởng của giá dầu.

Giá hàng hoá thế giới:

 
ĐVT
Giá 12/4
So với phiên trước
Cùng kỳ 2009
So với cùng kỳ năm ngoái (%)
Dầu thô – New York – T5/10
USD/thùng
 85,57
 +0,65
79,36
 7,1
 Khí thiên nhiên (T5/10)
USD/gallon
 4,116
+0,046  
 
 
 Dầu Brent – London (T5/10)
USD/thùng
 85,40
 +0,57
77,93
-100,0
Vàng
USD/ounce
 1161,90
 9,00
1096,20
 6,0
 Bạc
USD/ounce
18,351
0,224
 16,845
 8,9
platinum
USD/ounce
 1727,40
10,30
1471,00
17,4
palladium
 
10,10
2,0
25,6
 
Đồng – New York
USD/tấn
359,00
 0,35
 334,65
 7,3
Đồng – London
USD/tấn
7895,00
 
7375,00
-100,0
Ngô
USD/bushel
 3,4575
-0,0250
4,145
 -16,6
Đậu tương
USD/bushel
 9,5225
 0,0575
10,3975
-8,4
Lúa mì
USD/bushel
 4,6575
-0,0350
5,415
 -14,0
Cà phê
US cent/lb
132,70
-2,00
 135,95
-2,4
Cacao
USD/tấn
2856
-5,00
 3289
 -13,2
Đường
US cent/lb
 16,39
 0,47
26,95
 -39,2