Trên thị trường năng lượng, giá dầu vọt lên mức cao nhất trong năm 2016 sau khi Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) dự báo tình trạng dư cung dầu mỏ sẽ giảm mạnh trong nửa cuối năm nay.
Kết thúc phiên này, tại thị trường New York, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 6/2016 tăng 47 US cent lên 46,70 USD/thùng, mức cao nhất kể từ đầu năm 2016. Tại thị trường London của Anh, giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 7/2016 cũng tăng 48 xu Mỹ lên 48,08 USD/thùng.
Trong báo cáo tháng IEA dự đoán nhu cầu dầu mỏ thế giới sẽ tăng mạnh trong năm nay sau khi nhu cầu năng lượng toàn cầu trong quý 1/2016 tăng vượt kỳ vọng, chủ yếu nhờ nhu cầu tăng từ Ấn Độ.
IEA cũng vẫn giữ nguyên mức dự báo về nhu cầu năng lượng năm 2016 ở mức 95,9 triệu thùng/ngày.
Ngoài ra, IEA cũng cho biết thêm rằng sản lượng khai thác dầu mỏ của Iran trong tháng Tư vừa qua “tăng mạnh” lên gần 3,6 triệu thùng/ngày, mức cao nhất mà nước này đạt được trong tháng 11/2011.
Iran dành 2 triệu thùng trên tổng số lượng dầu mỏ khai thác mỗi ngày cho xuất khẩu.
Trong khi đó tổng sản lượng khai thác dầu của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) trong tháng Tư ở mức 32,8 triệu thùng/ngày, mức khai thác cao nhất kể từ năm 2008.
Dù báo cáo của IEA khiến nhà đầu tư lo lắng bởi thông tin dự trữ dầu tăng trong nửa đầu năm 2016, phần đông các chuyên gia trong đó có chuyên gia phân tích tại quỹ Energy Management Institute, ông Dominick Chirichella, khẳng định thông điệp tích cực vẫn nhiều hơn tiêu cực.
Ông Chirichella khẳng định nhu cầu dầu sẽ tăng đủ mạnh để hấp thụ được nguồn cung dầu thừa thãi. Nhu cầu dầu tại Ấn Độ, Trung Quốc, Nga tăng nhanh còn nhu cầu của Mỹ vào tháng 3 đã lập kỷ lục.
Số liệu từ chủ tịch quỹ Mount Lucas Management, ông Tim Rudderow, cũng cho thấy nhu cầu dầu trên thế giới tăng mạnh. Ngay cả tại Mỹ, người Mỹ đang quay trở lại sử dụng xe tải và xe đa dụng thể thao nhiều hơn.
Cùng lúc đó, sản xuất năng lượng toàn cầu đang thu hẹp. Sản lượng dầu tại Mỹ giảm và hàng loạt sự cố tại Nigeria, Ghana và Canada đã khiến sản lượng dầu tại nhóm nước này giảm hơn 1,5 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng quay đầu giảm khi đồng USD mạnh lên.
Giá vàng giao tháng 6/2016 tại giảm 0,3% xuống 1.271,20 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD đã tăng 0,3%. Các nhà giao dịch cho biết đồng yen đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần hai tuần so với đồng USD, trước những đồn đoán Ngân hàng Trung ương Nhật Bản có thể mở rộng chương trình kích thích kinh tế vào tháng tới.
Từ đầu năm tới nay giá vàng tăng khoảng 20% trong bối cảnh thị trường giảm bớt những đồn đoán về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nâng lãi suất trong ngắn hạn.
Quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới, SPDR Gold Shares, cho biết trong phiên 11/5 lượng vàng do quỹ này nắm giữ đã tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 12/2013.
Trên thị trường nông sản, cà phê đồng loạt tăng giá. Tại London, robusta tăng 6-11 USD/tấn trong khi tại New york, arabica tăng 0,3-0,45 cent/lb.
Tuy giá tăng, song khối lượng thực tế bán ra vẫn thấp khi giới đầu cơ bắt đầu “làm việc”, găm hàng chờ giá lên.
Mức cộng cà phê Robusta Việt Nam loại 2, 5% đen vỡ giao tháng 7/2016 đứng ở 30-40 USD/tấn so với 50-55 USD/tấn tuần trước.
Theo BMI Research, sản lượng cà phê của Indonesia niên vụ 2016-2017 dự báo giảm 20% trong khi Fitch Group cũng dự đoán giảm 8% thay vì 3% như dự đoán hồi tháng 4.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
46,70
|
+0,47
|
+1,22%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
48,08
|
+0,48
|
+0,94%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
30.680,00
|
-190,00
|
-0,62%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,12
|
-0,04
|
-1,67%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
157,18
|
-1,15
|
-0,73%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
138,58
|
-0,82
|
-0,59%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
414,25
|
+3,25
|
+0,79%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
42.330,00
|
-60,00
|
-0,14%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.269,10
|
-2,10
|
-0,17%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.410,00
|
-24,00
|
-0,54%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,05
|
-0,05
|
-0,31%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,20
|
-1,30
|
-2,15%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.047,05
|
-0,60
|
-0,06%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
592,10
|
-2,75
|
-0,46%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
207,20
|
-0,25
|
-0,12%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.613,00
|
-95,00
|
-2,02%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.545,00
|
-19,00
|
-1,21%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.870,00
|
-33,00
|
-1,73%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
16.675,00
|
-550,00
|
-3,19%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
386,25
|
-2,75
|
-0,71%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
466,25
|
-1,75
|
-0,37%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
190,00
|
-1,75
|
-0,91%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,75
|
-0,06
|
-0,55%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.065,25
|
-6,75
|
-0,63%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
361,90
|
-2,50
|
-0,69%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,43
|
-0,14
|
-0,43%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
507,10
|
+0,60
|
+0,12%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.020,00
|
-50,00
|
-1,63%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
130,05
|
+0,30
|
+0,23%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
16,98
|
+0,21
|
+1,25%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
146,95
|
+1,40
|
+0,96%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,61
|
-0,12
|
-0,20%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
322,10
|
+0,90
|
+0,28%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
175,20
|
-7,70
|
-4,21%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,54
|
+0,01
|
+0,85%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg