Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khi giới đầu tư tin tưởng Anh sẽ ở lại EU và điều này kéo giảm USD.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 8/2016 trên sàn New York Mercantile Exchange tăng 98 cent, tương đương 2%, lên 50,11 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 8/2016 trên sàn ICE Futures Europe tăng 1,03 USD, tương ứng 2,1%, lên 50,91 USD/thùng.
Cả chứng khoán và hàng hóa đều tăng trong phiên 23/6 khi thị trường tin tưởng hơn rằng Anh sẽ ở lại EU. Nếu Anh ở lại EU đúng như dự đoán, nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn về sự ổn định của kinh tế toàn cầu và hệ thống tài chính.
Theo kết quả khảo sát của Ipsos Mori, trong số những người dân có khả năng đi bầu và những người cho biết kết quả bỏ phiếu quan trọng đối với họ, 52% ủng hộ việc ở lại và 48% ủng hộ việc ra khỏi EU. Kết quả cuộc bỏ phiếu sẽ được công bố vào sáng thứ Sáu 24/6.
Giá dầu đã có đợt tăng giá mạnh nhất kể từ khủng hoảng tài chính, tăng gần gấp đôi kể từ cuối tháng 2/2016, phần lớn do gián đoạn nguồn cung tại nhiều khu vực trên thế giới và sản lượng dầu thô của Mỹ giảm, giúp xoa dịu tình trạng thừa cung toàn cầu. Với khả năng Brexit ngày một giảm, USD được dự đoán sẽ đi xuống trong khi giá dầu tăng, đẩy giá dầu Mỹ lên trên 50 USD/thùng và có thể lên 51,50 USD/thùng trong phiên thứ Sáu 24/6.
Tuy vậy, nhiều nhà phân tích vẫn cảnh báo rằng tình trạng thừa cung toàn cầu - từng khiến giá dầu lao dốc kể từ năm 2014 - có thể sớm quay trở lại và trở thành tâm điểm chú ý của giới đầu tư. Số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố hôm thứ Tư 22/6 cho thấy, lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 17/6 chỉ giảm 917.000 thùng, thấp hơn nhiều so với mức giảm 5,2 triệu thùng theo số liệu của Viện Dầu mỏ Mỹ (API) đưa ra hôm thứ Ba 21/6.
Trên thị trường năng lượng, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần trong bối cảnh giới đầu tư chờ kết quả bỏ phiếu của người dân Anh với dư đoán nước này sẽ ở lại EU.
Cuộc bỏ phiếu của người dân Anh quyết định việc nước này đi hay ở lại EU sẽ kết thúc vào lúc 17h giờ địa phương (21.00 GMT) và kết quả sẽ được công bố vào sáng thứ Sáu 24/6.
Giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.261,9 USD/ounce, giá vàng giao tháng 8 giảm 0,5% xuống 1.263,1 USD/ounce, ghi nhận phiên giảm thứ 5 liên tiếp.
Bảng Anh lên cao nhất từ đầu năm đến nay so với USD và thị trường chứng khoán toàn cầu tăng ngày thứ 5 liên tiếp.
Theo giới phân tích, kết quả cuộc bỏ phiếu của người Anh cũng sẽ ảnh hưởng đến Fed trong việc quyết định nâng lãi suất sớm hơn hay muộn hơn.
Lượng vàng nắm giữ của Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR hôm thứ Tư 22/6 lên cao nhất kể từ tháng 9/2013.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,3% lên 17,3 USD/ounce, giá palladium tăng 0,4% lên 562 USD/ounce trong khi giá bạch kim giảm 0,7% xuống 964,49 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt tăng. Tại London, robusta tăng 9-11 USD/tấn, trong khi đó tại New York, robusta tăng 2,3-3,2 cent/lb.
Mức cộng cà phê Indonesia gần như không đổi trong tuần này bất chấp nhu cầu tăng mạnh và vụ thu hoạch đang vào chính vụ, trong khi giá cộng thêm cà phê Việt Nam giảm nhẹ.
Tuy nhiên, giá cà phê tại Indonesia - nước sản xuất Robusta lớn thứ 3 thế giới sau Việt Nam và Brazil - vẫn chưa thể ảnh hưởng đến giá toàn cầu do phần lớn cà phê của Indonesia được bán ra phục vụ thị trường nội địa.
Sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2016-2017 được dự đoán tăng 1,6% lên 155,7 triệu bao nhờ sản lượng Arabica tăng trong khi sản lượng Robusta giảm, theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA).
Bên cạnh đó, giá cà phê của Indonesia vẫn có khả năng cạnh tranh kém hơn so với cà phê Việt Nam - thấp hơn 50 USD/tấn.
Mức cộng cà phê Việt Nam loại 2, 5% đen vỡ giao tháng 9/2016 cũng giảm xuống 30-40 USD/tấn so với 35-45 USD/tấn một tuần trước.
Theo USDA, sản lượng cà phê của 7 nước sản xuất châu Á, gồm Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Lào và Philippines, chiếm ít nhất 1/3 tổng sản lượng cà phê toàn cầu, có thể giảm 7,8% trong niên vụ 2016-2017 xuống 45,97 triệu bao.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
50,11
|
+0,98
|
+2%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
50,91
|
+1,3
|
+2,1%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
31.390,00
|
+40,00
|
+0,13%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,69
|
-0,01
|
-0,48%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
158,60
|
-1,75
|
-1,09%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
150,62
|
-1,44
|
-0,95%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
445,50
|
-3,75
|
-0,83%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
44.310,00
|
+20,00
|
+0,05%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.273,10
|
-10,00
|
-0,79%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.262,00
|
+24,00
|
+0,57%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,38
|
+0,02
|
+0,13%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
58,20
|
+0,30
|
+0,52%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
971,35
|
+5,45
|
+0,56%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
556,57
|
-8,81
|
-1,56%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
214,85
|
-1,40
|
-0,65%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.780,00
|
+79,00
|
+1,68%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.642,00
|
+8,00
|
+0,49%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.039,00
|
-7,00
|
-0,34%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.250,00
|
+100,00
|
+0,58%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
394,25
|
+1,75
|
+0,45%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
465,75
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
210,00
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,04
|
0,00
|
-0,05%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.107,00
|
+5,50
|
+0,50%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
384,30
|
+3,30
|
+0,87%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,35
|
-0,11
|
-0,34%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
485,00
|
-0,20
|
-0,04%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.184,00
|
+28,00
|
+0,89%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
142,90
|
+3,20
|
+2,29%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,19
|
+0,02
|
+0,10%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
167,20
|
+3,00
|
+1,83%
|
Bông
|
US cent/lb
|
65,35
|
-0,07
|
-0,11%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
311,00
|
+2,80
|
+0,91%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
154,60
|
-1,00
|
-0,64%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,58
|
0,00
|
-0,13%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg