Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi có lúc tăng cao bởi xuất khẩu dầu thô của Nga sang châu Âu bị gián đoạn. Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent kỳ hạn giao sau giảm 0,3% xuống 74,35 USD/ thùng, sau khi tăng trong phần lớn phiên và có lúc đã lên mức cao nhất kể từ phiên 31/10 là 75,6 USD/ thùng. Tại New York, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ đóng phiên ở mức 65,21 USD/ thùng, giảm 1,03%, sau khi có lúc tăng lên mức cao 66,28 USD/ thùng.
Các nhà giao dịch năng lượng cho hay dầu Brent nhận được sự hậu thuẫn trong phiên này sau khi Ba Lan và Đức tạm ngừng nhập khẩu dầu thô của Nga qua đường ống dẫn dầu Druzhba - một trong những đường ống dẫn dầu có quy mô lớn nhất và dài nhất thế giới, có khả năng cung cấp lên tới 1 triệu thùng/ngày - do vấn đề chất lượng.
Trong khi đó, các nguồn tin thương mại cho biết Cộng hòa Czech cũng có quyết định tương tự. Ngoài ra, việc Mỹ quyết định chấm dứt cơ chế miễn trừ trừng phạt cho một số quốc gia và vùng lãnh thổ nhập khẩu dầu mỏ từ Iran từ tháng Năm tới cũng góp phần đẩy giá dầu tăng cao.
Số liệu từ Chính phủ Mỹ cho thấy dự trữ dầu thô của nước này trong tuần trước đã tăng 5,5 triệu thùng dầu lên mức cao nhất kể từ tháng 10/2017 là 460,6 triệu thùng giữa bối cảnh dự trữ dầu tại Cushing, Oklahoma tăng 463.000 thùng dầu. Hiện Mỹ đang là nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới với sản lượng khai thác dầu ở mức cao kỷ lục 12,2 triệu thùng dầu/ngày.
Nga, nước xuất khẩu dầu thô lớn thứ hai thế giới, cho biết họ có kế hoạch bắt đầu bơm nhiên liệu sạch tới châu Âu thông qua đường ống này vào ngày 29/4/2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong vòng hơn 1 tuần do đồng USD giảm và chứng khoán toàn cầu đi xuống, giữa lúc nhu cầu đối với các tài sản an rủi ro đang “nguội" bớt.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,2%, lên 1.276,93 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức 1.282,38 USD/ounce, cao nhất kể từ ngày 16/4; vàng giao sau vững ở mức 1.279,70 USD/ounce.
Trong phiên 25/4, chỉ số đồng USD, thước đo đánh giá diễn biến của đồng bạc xanh so với rổ sáu đồng tiền chủ chốt, đã rời khỏi mức cao nhất gần hai năm ghi nhận ở đầu phiên và đảo chiều đi xuống. Ngoài ra, thị trường chứng khoán giảm điểm cũng góp phần hỗ trợ giá kim loại quý này.
Tuy nhiên, vàng hiện vẫn dao động dưới ngưỡng tâm lý quan trọng 1.300 USD/ounce, chủ yếu do đồng USD mạnh và các số liệu kinh tế tốt ngoài dự kiến mới đây của Mỹ và Trung Quốc. Giới đầu tư đang chờ đợi số liệu về tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ, dự kiến công bố vào ngày 26/4.
Cũng trong phiên này, giá bạc hạ nhẹ xuống 14,91 USD/ounce. Giá palladium mất 0,1%, xuống 1.416,01 USD/ounce. Trong khi đó, giá bạch kim lại tăng 0,8%, lên 885,78 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá sắt và thép Trung Quốc đều giảm, phiên giảm thứ ba liên tiếp do nhu cầu yếu. Giá thép cây tại Thượng Hải đóng cửa giảm 0,6% xuống 3.712 CNY(551,31 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng giảm 0,8% xuống 3.648 CNY. Giá quặng sắt giao hàng tháng 9/2019 giảm 1% xuống còn 616 CNY/tấn.
Các nhà phân tích của Huatai Futures cho biết dự trữ các sản phẩm thép vẫn đang giảm nhưng với tốc độ chậm hơn, điều này cho thấy mùa tiêu thụ thép đang đến gần.
Baosteel, nhà sản xuất thép lớn nhất của Trung Quốc cho biết thu nhập ròng giảm 46% trong quý đầu tiên so với một năm trước, lần giảm lợi nhuận đầu tiên kể từ năm 2015, do giá nguyên liệu cao hơn và nhu cầu tiêu thụ thép tấm sử dụng trong ngành ô tô yếu.
Trong khi đó, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm thứ Tư cho biết các cuộc đàm phán thương mại đang diễn ra giữa Washington và Bắc Kinh đang diễn ra tốt đẹp, điều này cũng giúp cải thiện tâm lý thị trường. Vòng đàm phán tiếp theo dự kiến sẽ bắt đầu vào ngày 30/4 tại Bắc Kinh, sau đó là các cuộc thảo luận tiếp theo tại Washington vào ngày 8/5.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê Robusta đã giảm xuống mức thấp hơn 3 năm theo xu hướng giảm giá cà phê Arabica do vụ thu hoạch lớn tại Brazil trong năm ngoái và triển vọng vụ mùa thuận lợi trong năm nay. Cà phê Robusta kỳ hạn tháng 7/2019 đã giảm 1 USD, tương đương 0,07%, xuống mức 1.390 USD/tấn, sau khi giảm xuống mức thấp nhất là 1.369 đô la, mức thấp thứ hai kể từ tháng 3/2016.Các thị trường Arabica đã giảm từ tuần trước và bây giờ đến lượt Robust. Cà phê Arabica giao tháng 7/2019 tăng 1 cent, tương đương 1,1%, đạt mức 93,35 cent/ lb.
Tại Việt Nam, xuất khẩu cà phê được dự báo sẽ giảm còn 2 triệu bao 60 kg trong tháng 4 so với mức 2,87 triệu bao vào tháng 3, do nông dân không muốn bán với giá thấp. Cà phê nhân xô ở Tây Nguyên được bán với giá 30.400-31.500 đồng (1,31- 1,36 USD)/kg vào ngày 25/4, so với 30.500-31.400 đồng vào tuần trước. Các thương nhân ở Việt Nam đã chào bán cà phê 5% đen và vỡ loại 2 với giá trừ lùi 45 USD/ tấn so với hợp đồng tháng 7/2019 trên sàn London, không đổi so với mức giá tuần trước.
Trong khi đó, tại Indonesia, giá đang tăng lên do nhu cầu tiêu thụ tăng. Mức chệnh lệch giá đối với cà phê loại 4, 80 hạt lỗi đã tăng lên 130 USD so với hợp đồng tháng 7/2019 trên sàn London, tăng mạnh so với mức 100 - 110 USD cách đây một tuần.
Giá hạt tiêu thế giới giao ngay tại sàn Kochi (Ấn Độ) tăng mạnh 400 Rupi/tạ, tăng gần 2%, lên mức 35.250 Rupi/tạ. Giá hạt tiêu giao tháng 4/2019 cũng tăng hơn 204 Rupi/tạ, tương đương gần 1% lên ngưỡng 35.111 Rupi/tạ. Giá hạt tiêu trên (sàn SMX - Singapore) tháng 9/2019 vẫn không đổi, ở mức 6.500 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
65,21
|
-1,03
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
74,35
|
-0,3
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
48.440,00
|
-580,00
|
-1,18%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,50
|
-0,01
|
-0,44%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
212,09
|
-1,12
|
-0,53%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
209,05
|
-0,76
|
-0,36%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
643,00
|
-4,50
|
-0,69%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
66.000,00
|
-440,00
|
-0,66%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.281,60
|
+1,90
|
+0,15%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.587,00
|
+5,00
|
+0,11%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,03
|
+0,07
|
+0,43%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
53,60
|
-0,10
|
-0,19%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
885,75
|
-1,42
|
-0,16%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.417,98
|
+0,59
|
+0,04%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
287,85
|
+1,10
|
+0,38%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.365,00
|
-83,00
|
-1,29%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.857,00
|
-15,00
|
-0,80%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.741,00
|
-1,00
|
-0,04%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.820,00
|
+120,00
|
+0,61%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
357,75
|
+0,50
|
+0,14%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
441,50
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
288,25
|
-0,25
|
-0,09%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,42
|
0,00
|
0,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
869,75
|
-3,00
|
-0,34%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
308,10
|
-1,50
|
-0,48%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28.24
|
+0.02
|
+0.07%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
447.80
|
-0.10
|
-0.02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.285,00
|
+37,00
|
+1,65%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
93,35
|
+1,00
|
+1,08%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,69
|
-0,21
|
-1,63%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
104,80
|
+0,35
|
+0,34%
|
Bông
|
US cent/lb
|
78,17
|
-0,15
|
-0,19%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
343,80
|
+13,70
|
+4,15%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
191,70
|
+0,70
|
+0,37%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,33
|
+0,01
|
+0,53%
|
Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF