Trên thị trường năng lượng, giá dầu thế giới tăng giữa lúc giới đâu tư hướng sự chú ý tới các yếu tố địa chính trị, vốn đang gây hạn hẹp các nguồn cung.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giao tháng 5/2019 đã tăng 76 US cent lên 67,97 USD/thùng, vẫn sát mức cao nhất kể từ đầu năm 2019 đến nay là 68,69 USD/thùng (đạt được vào ngày 21/3). Trong khi đó, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 4/2019 tăng 1,12 USD, tương đương 1,9%, lên 59,94 USD/thùng, trước khi Mỹ công bố số liệu chính thức về lượng dầu dự trữ của nước này.
Bất chấp những quan ngại về tình trạng nhu cầu dầu toàn cầu yếu kém do kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, giá dầu đã tăng hơn 25% kể từ đầu năm 2019 đến nay trong bối cảnh Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước liên minh tiếp tục thực hiện thỏa thuận cắt giảm sản lượng, trong khi sản lượng dầu của Iran và Venezuela sụt giảm do chịu tác động từ các biện pháp trừng phạt của Mỹ.
Trước đó, Viện Dầu mỏ Mỹ (API) cho hay dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 1,9 triệu thùng trong tuần gần nhất. Thị trường dầu mỏ hiện đang chờ xem liệu các số liệu chính thức về lượng dầu dự trữ mà Mỹ công bố vào ngày 27/3 có khớp với dự báo của API hay đúng với ước tính giảm 1,2 triệu thùng.
Trong khi đó, sự phụ thuộc của Trung Quốc vào dầu thô nhập khẩu đã tăng vọt lên khoảng 70%, giữa bối cảnh Nga hiện vẫn là nhà cung cấp lớn nhất của nước này trong ba năm liên tiếp từ 2016-2018. Bản báo cáo chung, do Hiệp hội Doanh nghiệp Dầu khí Trung Quốc và Đại học Kinh doanh và Kinh tế Quốc tế công bố ngày 24/3, cho hay với tổng khối lượng nhập khẩu đứng ở mức 71,49 triệu tấn trong năm 2018, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2017, thị phần của Nga chiếm khoảng 15,7%, tiếp đó là Saudi Arabia và Angola.
Báo cáo nhấn mạnh trong 6 năm qua, xuất khẩu dầu thô của Nga sang Trung Quốc đã tăng hơn gấp đôi, trong khi doanh thu từ những sản phẩm xuất khẩu đó sang Trung Quốc đã đóng góp khoảng 40% doanh thu tài chính của Nga. Theo báo cáo trên, trong năm 2018, các nguồn dầu thô ở nước ngoài của Trung Quốc đã mở rộng tới hơn 10 quốc gia, và Mỹ đã lần đầu tiên lọt vào top 10 nước hàng đầu, cho dù tỷ lệ thị phần mà Washington giành được vẫn là nhỏ so với các nhà cung cấp lớn, chỉ chiếm khoảng 3% trong quý đầu tiên của năm 2018.
Cũng theo báo cáo trên, tốc độ tăng trưởng về nhu cầu xăng dầu của Trung Quốc sẽ chứng kiến sự giảm nhẹ trong năm 2019 trong khi nhập khẩu sẽ tiếp tục tăng, đẩy sự phụ thuộc vào nguồn dầu nước ngoài lên gần 72%.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm nhẹ khỏi các mức cao nhất hơn ba tuần do USD hồi phục và nhu cầu đối với các tài sản rủi ro cũng như lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ tăng trở lại giữa lúc những lo ngại về khả năng kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái mờ đi.
Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,5% xuống đóng phiên ở mức 1.313,82 USD/ounce, trong khi đó vàng giao sau giảm 0,6% xuống 1.315 USD/ounce.
Người đứng đầu bộ phận chiến lược hàng hóa của TD Securities tại Toronto, Bart Melek, cho biết đồng USD và đường cong lợi suất trái phiếu Mỹ đã đảo chiều. Việc đồng USD mạnh tiếp tục là một trở ngại đối với giá vàng. Chỉ số đồng USD đã tăng 0,2%, khiến vàng được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Hiện các nhà đầu tư đang hướng sự chú ý tới vòng đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, dự kiến diễn ra trong ngày 27/3 tại Bắc Kinh, cũng như những nỗ lực của nghị sĩ Anh nhằm phá vỡ thế bế tắc liên quan đến vấn đề Brexit, chỉ việc nước Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU).
Về những kim loại quý khác, giá palađi chốt phiên hạ 2,2% xuống 1.541 USD/ounce sau khi chạm mức thấp nhất trong khoảng hai tuần là 1.532,56 USD/ounce trong phiên trước; giá bạc giảm 0,7% xuống 15,42 USD/ounce, còn giá bạch kim tiến 0,3% lên 857,79 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá quặng sắt Đại Liên chốt phiên giảm sau khi các công ty khai thác quặng lớn tại Australia khôi phục lại một số hoạt động sau cơn bão, làm giảm bớt lo ngại về nguồn cung khan. Điều này làm giúp giảm bớt căng thẳng nguồn cung khi tòa án Brazil buộc đóng cửa một số mỏ thuộc công ty Vale.
Hoạt động tại đập thứ 13 vẫn bị tê liệt khiến mỏ Brucutu lớn của Vale, với công suất hàng năm là 30 triệu tấn quặng sắt, mất nhiều thời gian hơn dự kiến để quay trở lại sản xuất.
Giá quặng sắt kỳ hạn tại Đại Liên giảm 0,8% xuống còn 609 CNY(90,75 USD)/tấn vào lúc đóng cửa.
Tuy nhiên, dự trữ quặng sắt vẫn tiếp tục cao trong tuần kết thúc vào 22/3 đạt 148,6 triệu tấn do các nhà máy thép vẫn chưa khôi phục hoàn toàn sản xuất sau những hạn chế sản xuất.
Trong khi đó, giá thép tiếp tục giảm trong bối cảnh những lo ngại dai dẳng về suy thoái kinh tế toàn cầu và các cuộc đàm phán thương mại không chắc chắn giữa Bắc Kinh và Washington dự kiến vào cuối tuần này.
Giá thép cây Thượng Hải đã giảm 0,7% xuống còn 3,705 CNY/ tấn, trong khi giá thép cuộn cán nóng chốt phiên giảm 0,7% xuống còn 3.662 CNY.
Sản lượng thép thô toàn cầu đã tăng 4,1% lên 137 triệu tấn trong tháng 2/2019 so với cùng tháng năm ngoái, số liệu từ Hiệp hội Thép Thế giới cho thấy hôm qua. Sản lượng thép thô từ Trung Quốc đã tăng lên 71,0 triệu tấn, tăng 9,2%.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô lên và cà phê arabica chốt phiên đồng loạt tăng lên. Đường thô tăng 0,11 cent, tương đương 0,9%, lên mức 12,59 cent/lb, vẫn duy trì trong biên độ dao động gần đây là 12 -13 cent/lb. Giá được hỗ trợ bởi giá dầu cao hơn đã khuyến khích các nhà máy mía ở Brazil sản xuất ethanol từ đường nhiều hơn. Giá đường trắng giảm 90 cent, tương đương 0,3%, xuống còn 331,60 USD/tấn.
Trong khi đó, giá cà phê arabica tháng 5 cũng tăng 1,1 cent, tương đương 1,2%, lên mức 95,35 cent/lb; giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn tăng 11 USD tương đương 0,73% lên 1.510 USD/tấn.
Giá hạt tiêu tại Ấn Độ vững trong bối cảnh hàng trăm mẫu đất trồng tiêu của nước này đang bị đe dọa bởi bệnh héo nhanh do tình trạng hạn hán vẫn còn phổ biến.
Giá hạt tiêu thế giới giao ngay tại sàn Kochi (Ấn Độ) ổn định ở mức 34.250 Rupee/tạ; giá tiêu giao tháng 3/2019 cũng ổn định ở mức 34.860 Rupee/tạ. Giá hạt tiêu trên sàn SMX, Singapore giao tháng 9 vẫn không đổi, ở mức 6.500 USD/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giao hàng tháng 9/2019 đã tăng 0,2 JPY lên 184,8 JPY(1,68 USD)/kg, lần tăng giá đầu tiên trong 4 phiên qua. Giá cao su TSR 20 của TOCOM giao hàng tháng 9/2019 tăng 0,3% đạt 163,4 JPY/kg. Trong khi đó, giá hợp đồng tháng 8/2019 tại Thượng Hải chốt phiên giảm 1,3% còn 11.505 CNY (1.715,14 USD)/tấn. Giá cao su giao tháng 4/2019 tại Singapore cũng giảm 1,7cent còn 146,5 Uscent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

59,94

+1,12

+1,9%

Dầu Brent

USD/thùng

67,97

+0,76

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

45.060,00

+400,00

+0,90%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,72

-0,02

-0,62%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

194,41

-1,16

-0,59%

Dầu đốt

US cent/gallon

198,87

-0,12

-0,06%

Dầu khí

USD/tấn

612,50

+2,25

+0,37%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

61.100,00

+330,00

+0,54%

Vàng New York

USD/ounce

1.324,00

-2,60

-0,20%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.673,00

+15,00

+0,32%

Bạc New York

USD/ounce

15,47

+0,04

+0,27%

Bạc TOCOM

JPY/g

55,10

-0,10

-0,18%

Bạch kim

USD/ounce

861,01

+1,91

+0,22%

Palađi

USD/ounce

1.547,86

+4,30

+0,28%

Đồng New York

US cent/lb

287,20

+1,80

+0,63%

Đồng LME

USD/tấn

6.330,00

-10,00

-0,16%

Nhôm LME

USD/tấn

1.888,00

+5,00

+0,27%

Kẽm LME

USD/tấn

2.873,00

+41,00

+1,45%

Thiếc LME

USD/tấn

21.300,00

-50,00

-0,23%

Ngô

US cent/bushel

376,75

-0,50

-0,13%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

469,75

+0,50

+0,11%

Lúa mạch

US cent/bushel

273,50

+0,50

+0,18%

Gạo thô

USD/cwt

11,25

-0,01

-0,13%

Đậu tương

US cent/bushel

899,25

-1,50

-0,17%

Khô đậu tương

USD/tấn

310,30

-0,70

-0,23%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,64

-0,01

-0,03%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

451,60

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.237,00

+21,00

+0,95%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

95,35

+1,10

+1,17%

Đường thô

US cent/lb

12,59

+0,11

+0,88%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

128,50

-0,35

-0,27%

Bông

US cent/lb

77,69

-0,20

-0,26%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

369,20

+6,20

+1,71%

Cao su TOCOM

JPY/kg

184,60

+2,40

+1,32%

Ethanol CME

USD/gallon

1,41

-0,01

-0,91%

 

Nguồn: Vinanet