Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do khi nhà đầu tư nhận được thống kê cho hay dự trữ dầu thô và xăng của Mỹ có xu hướng tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York giảm 90 US cent xuống 63,01 USD/thùng; trong khi đó giá dầu Brent giảm 87 US cent xuống 66,63 USD/thùng.
Viện Dầu mỏ Mỹ (API) cho biết lượng dự trữ dầu của nước này đã tăng khoảng 933.000 thùng trong tuần kết thúc vào ngày 23/2.
Nhập khẩu ròng dầu thô của Mỹ trong tuần trước giảm 1,6 triệu thùng/ngày xuống 4,98 triệu thùng/ngày – mức thấp nhất kể từ khi EIA bắt đầu thu thập số liệu vào năm 2001.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo Mỹ sẽ vượt Nga để trở thành nước sản xuất dầu thô lớn nhất thế giới vào năm 2019, khi đợt bùng nổ dầu khí đá phiến tại nước này chưa có dấu hiệu “hạ nhiệt”.
Phát biểu ngày 27/2 tại Tokyo (Nhật Bản), Tổng Giám đốc IEA Fatih Birol cho biết, nếu không phải trong năm nay thì chắc chắn sang năm tới Mỹ sẽ đoạt ngôi của Nga trở thành nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới. Nga hiện là nước sản xuất dầu hàng đầu thế giới, với sản lượng đạt gần 11 triệu thùng/ngày. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) đầu tháng này dự báo sản lượng khai thác dầu của Mỹ sẽ vượt mức 11 triệu thùng dầu/ngày vào cuối năm nay.
Sản lượng khai thác dầu thô Mỹ cuối năm ngoái đã vượt mức 10 triệu thùng dầu/ngày lần đầu tiên kể từ những năm 1970, cao hơn sản lượng của nhà xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới Saudi Arabia.
Sản lượng khai thác dầu của Mỹ tăng đang gây lo ngại các thị trường dầu toàn cầu, trong bối cảnh nhóm các nước sản xuất dầu chủ chốt của thế giới, trong đó có Nga và Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), đang nỗ lực giảm sản lượng nhằm hỗ trợ giá dầu.
Dầu thô Mỹ hiện cũng đang được xuất khẩu nhiều hơn, đến cả các thị trường lớn nhất và tăng trưởng nhanh nhất thế giới tại châu Á, lấn át thị phần của OPEC và Nga.
Trong một thông tin có liên quan đến thị trường dầu mỏ, ngày 27/2, Chính phủ Iraq thông báo đã nhất trí với ban lãnh đạo người Kurd về việc sớm nối lại hoạt động xuất khẩu dầu mỏ ở tỉnh Kirkuk thông qua cảng Ceyhan của Thổ Nhĩ Kỳ, dù không cho biết thời điểm cụ thể. Thủ tướng Iraq Haider al-Abadi cho biết hiện chính phủ đang đàm phán với phía Thổ Nhĩ Kỳ về việc nối lại đường ống dầu. Phía Ankara cam kết sẽ thông báo lại quyết định của mình trong vòng 10 ngày. Bên cạnh đó, Thủ tướng al-Abadi cũng cho hay đã nhất trí với ban lãnh đạo người Kurd sẽ giải quyết những vấn đề còn tồn đọng khác sau và hiện các cuộc thương thảo vẫn đang diễn ra.
Trước đó, hoạt động xuất khẩu dầu thô từ Kirkuk thuộc khu vực người Kurd đã bị đình trệ kể từ khi lực lượng chính phủ trung ương Iraq nắm lại quyền kiểm soát các giếng dầu tại đây hồi tháng 10 năm ngoái sau khi trưng cầu dân ý về tự trị của người Kurd.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm hơn 1% sau khi tân Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) khẳng định lộ trình nâng dần lãi suất của ngân hàng trung ương này.
Giá vàng giao ngay giảm 1,1% xuống 1.318,22 USD/ounce, trong phiên có lúc giá chạm mức thấp nhất hai tuần là 1.313,26 USD/ounce; vàng giao tháng 4/2018 cũng giảm 1,1% (14,2 USD) xuống khép phiên ở mức 1.318,6 USD/ounce.
Chỉ số USD – được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – phiên này tăng 0,49% lên mức 90,32. Đồng USD mạnh lên tạo áp lực cho giá vàng sau khi tân Chủ tịch Fed Jerome Powell trong buổi điều trần đầu tiên trước Quốc hội Mỹ khẳng định lộ trình tăng lãi suất sẽ được tiếp tục. Nền kinh tế Mỹ đang nhận được những động lực tăng trưởng mới đến từ chương trình cải cách thuế của Tổng thống Donald Trump và các kế hoạch chi tiêu của chính phủ. Giá vàng luôn nhạy cảm với các động thái điều chỉnh lãi suất của Mỹ, bởi lãi suất tăng sẽ giúp đồng USD mạnh lên song lại khiến sức hấp dẫn của các tài sản không sinh lời như vàng giảm đáng kể.
Trong khi đó, số liệu cho thấy lượng vàng nhập khẩu trong tháng 1/2018 của Trung Quốc qua Đặc khu hành chính Hong Kong đã tăng 65,2% so với tháng trước đó.
Tuy nhiên, lượng nhập khẩu của thị trường tiêu thụ vàng lớn thứ hai thế giới là Ấn Độ lại giảm 22% trong cùng giai đoạn trên.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 1,43% xuống 16,42 USD/ounce, trong khi giá bạch kim cũng để mất 1,5% xuống 984,4 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giao tháng 5 giảm 0,56 US cent tương đương 12,87 US cent/lb, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất 8 tháng là 12,84 US cent; đường trắng giao tháng 5 giá giảm 8,9 USD tương đương 2,5% xuống 350,5 USD/tấn, sau khi có lúc giảm xuống 349,5 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 9/2015.
Dự báo dư thừa đường trên toàn cầu trong năm 2017/18 cũng gây áp lực giảm giá.
Sản lượng đường Ấn Độ niên vụ 2017/18 dự báo sẽ tăng lên mức cao kỷ lục 29,2 triệu tấn, tăng gần 12% so với dự báo trước đây, do sản lượng ở bang Maharastra có thể cao gấp đôi năm ngoái.
Cà phê cũng giảm giá trong phiên vừa qua, với arabica giao tháng 5 giảm 0,8 US cent tương đương 0,66% xuống 1,211 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn giảm 9 USD tương đương 0,5% xuống 1.735 USD/tấn.
Mức cộng hợp đồng giao tháng 3 so với tháng 5 lên tới kỷ lục cao 49 USD.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

63,01

-0,90

-1,28%

Dầu Brent

USD/thùng

66,63

-0,87

-1,21%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.440,00

-500,00

-1,19%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,69

+0,01

+0,26%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

179,75

-0,59

-0,33%

Dầu đốt

US cent/gallon

196,30

-2,29

-1,15%

Dầu khí

USD/tấn

590,50

-5,25

-0,88%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.120,00

-390,00

-0,68%

Vàng New York

USD/ounce

1.318,60

1,1%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.530,00

-38,00

-0,83%

Bạc New York

USD/ounce

16,41

-0,02

-0,15%

Bạc TOCOM

JPY/g

56,80

-0,50

-0,87%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

983,01

+0,15

+0,02%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

1.042,70

+4,00

+0,39%

Đồng New York

US cent/lb

317,70

-0,95

-0,30%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

7.021,00

-89,00

-1,25%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.147,00

+9,00

+0,42%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.487,00

-44,00

-1,25%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

21.725,00

+125,00

+0,58%

Ngô

US cent/bushel

379,25

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

478,00

+1,00

+0,21%

Lúa mạch

US cent/bushel

270,25

+0,50

+0,19%

Gạo thô

USD/cwt

12,18

+0,02

+0,16%

Đậu tương

US cent/bushel

1.052,50

+3,00

+0,29%

Khô đậu tương

USD/tấn

393,60

+4,40

+1,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,43

+0,03

+0,09%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

521,90

-0,10

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.227,00

+12,00

+0,54%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

121,10

-0,80

-0,66%

Đường thô

US cent/lb

12,87

-0,56

-4,17%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

144,00

-0,50

-0,35%

Bông

US cent/lb

82,25

+0,10

+0,12%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

511,70

-3,40

-0,66%

Cao su TOCOM

JPY/kg

191,20

-2,60

-1,34%

Ethanol CME

USD/gallon

1,49

0,00

-0,07%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg

Nguồn: Vinanet