Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô giảm sau số liệu cho thấy lượng dầu dự trữ tại các kho ở Mỹ trong tuần trước tăng nhiều hơn dự kiến do sự cố tràn hóa chất ở Texas đã làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tại New York sụt giảm 0,53 USD (0,9%) xuống 59,41 USD/thùng; trong khi đó dầu Brent Biển Bắc tại London giảm 0,14 USD (0,2%) so với mức đóng phiên trước đó, xuống 67,83 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước đã tăng khoảng 2,8 triệu thùng/ngày, trái ngược với dự đoán giảm 1,2 triệu thùng/ngày của các nhà phân tích. Cũng theo EIA, xuất khẩu dầu thô đã giảm 506.000 thùng/ngày.
Tuy nhiên, việc hoạt động xuất khẩu của Venezuela bị gián đoạn cũng giúp hạn chế phần nào sự sụt giảm của giá dầu.
Giá dầu đã phục hồi gần 30% từ mức thấp của năm 2018, nhờ động thái cắt giảm sản lượng để kiềm chế nguồn cung của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nhà xuất khẩu dầu chủ chốt khác, cộng với lệnh trừng phạt của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu của Venezuela và Iran.
Sản lượng dầu từ Nga, đồng minh lớn nhất không phải thành viên của OPEC, đạt mức trung bình 11,3 triệu thùng/ngày trong tháng Ba, so với mức 11,34 triệu thùng/ngày trong tháng trước đó.
Hồi đầu tháng này, Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak cho hay nước này có kế hoạch đẩy mạnh cắt giảm sản lượng dầu thô.
Giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) châu Á trong tuần này đã giảm xuống mức thấp nhất trong gần ba năm do nguồn cung toàn cầu cao kỷ lục và mức tồn kho cao ở Bắc Á đang kiềm chế nhu cầu nhập khẩu.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay chuyển đến Đông Bắc Á trong tháng 5 đã giảm xuống mức thấp gần ba năm là 4,30 USD/mmBtu.
Dự trữ khí đốt ở châu Á hiện rất cao và người mua đang có xu hướng chuyển sang châu Âu, các nguồn tin cho biết.
Nhiều công ty Trung Quốc đã ký hợp đồng trung hạn đến dài hạn vào năm ngoái để mua LNG với dự đoán nhu cầu sẽ tăng trong mùa đông, tuy nhiên, năm nay mùa đông không lạnh lắm do vậy nguồn cung LNG tại Trung Quốc hiện rất dồi dào.
Trong tháng 3, nhập khẩu LNG vào Đông Bắc Á tăng 3% so với tháng 2 trong khi nhập khẩu nhiên liệu siêu lạnh vào Tây Bắc châu Âu sẽ tăng 70%, lên mức cao kỷ lục trong thời gian này.
Nguồn cung LNG toàn cầu dự kiến sẽ tăng khoảng 40 triệu tấn, tương đương 13% trong năm nay, có khả năng gây thêm áp lực lên giá LNG châu Á.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm do đồng USD mạnh. Vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.310,56 USD/ounce; trong khi đó vàng giao sau giảm 0,3% xuống khép phiên ở mức 1.310,4 USD/ounce.
Các chuyên gia nhận định triển vọng kinh tế ảm đạm không hỗ trợ nhiều cho giá vàng, thường được đánh giá là kênh đầu tư an toàn trong thời kỳ bất ổn. Trong phiên đầu tuần, giá vàng đã có lúc vọt lên 1.324,32 USD/ounce, mức cao nhất trong hơn ba tuần.
Hiện nay, các nhà đầu tư đang chờ đợi diễn biến của vòng đàm phán tiếp theo giải quyết tranh chấp thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, được khởi động ngày 28/3 tại Bắc Kinh. Bên cạnh đó, diễn biến mới xung quanh tiến trình nước Anh rời Liên minh châu Âu (EU) cũng được các nhà giao dịch theo sát sao.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,9% xuống 15,29 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,1% xuống 854 USD/ounce. Đáng chú ý giá palađi phiên này sụt giảm 6,7% xuống 1.444,51 USD/ounce, mức giảm tính theo ngày mạnh nhất trong hơn hai năm qua, trước những lo ngại của giới đầu tư về việc giá tăng giá nhanh.
Giá palađi đã tăng gần gấp đôi lên mức cao kỷ lục 1.620,52 USD/ounce vào tuần trước so với mức 832 USD vào tháng 8/2018.
Các nhà đầu tư tích cực bán kiếm lời sau khi giá tăng, Tai Wong, người đứng đầu cơ sở và các công cụ phái sinh kim loại quý tại BMO cho biết. Một số nhà phân tích đã cảnh báo rằng giá không thể duy trì mức cao, đặc biệt là khi doanh số bán ô tô đã suy yếu ở các thị trường trọng điểm bao gồm Châu Âu và Trung Quốc, có nghĩa là các nhà sản xuất ô tô có thể cần ít kim loại hơn.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm đã chạm mức cao nhất trong một tuần do tồn kho giảm và những tiến bộ liên quan tới việc khôi phục hoạt động của Norsk Hydro. Giá nhôm chốt phiên tăng hơn 1,3% đạt mức 1.911 USD/tấn sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 21/3 là 1.919,50 USD.
Hydro cho biết họ đã đồng ý với chính phủ Brazil về việc cho phép bên thứ ba tiến hành đánh giá kỹ thuật, nếu được xác nhận, có thể dẫn đến sự gia tăng toàn diện về sản lượng tại nhà máy lọc dầu Alunorte. Thị trường alumina sẽ vẫn còn khan hàng trong thời gian tới và thông báo của Hydro có nhiều triển vọng tích cực nhưng sẽ còn mất một thời gian dài để đưa sản xuất trở lại.
Dự trữ nhôm tại LME giảm 7.000 tấn xuống còn 1,14 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ giữa tháng 12/2018.
Gía thép kỳ hạn tại Trung Quốc cũng tăng nhẹ do nhu cầu tiêu thụ mạnh song mức tăng được kiểm soát do việc cắt giảm sản xuất trong mùa đông sẽ hết hạn trong tuần này, gây lo ngại về nguồn cung sẽ tăng.
Giá thanh cốt thép tại Thượng Hải chốt phiên tăng 0,3% đạt 3.711 CNY(552,06 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tăng 0,5% lên 3,675 CNY/tấn.
Giá quặng sắt tại Đại Liên ổn định ở mức 613,5 CNY/tấn.
Kế hoạch cắt giảm sản xuất của các nhà máy thép Trung Quốc bắt đầu từ tháng 11/2018 và kết thúc vào tháng 3/2019 nhằm cải thiện chất lượng không khí. Một số nhà máy thép đã khôi phục lại hoạt động vào tuần trước, với tỷ lệ sử dụng tăng lên 63,4% vào ngày 22/3 so với mức 62,3% một tuần trước đó.
Fitch Ratings đã nâng mức dự báo giá quặng sắt 62% lên 75 đô la một tấn so với mức 60 USD/tấn cho năm 2019 và lên 70 USD/tấn so với mức 55 USD/tấn trong năm 2020, do nguồn cung gián đoạn sau sự cố vỡ đập của Vale tại Feijao.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 5/2019 giảm 1,5 UScent tương đương 1,6% xuống 93,85 UScent/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn giảm 6 USD tương đương 0,4% xuống 1.504 USD/tấn.
Đồng real Brazil đã xuống mức thấp nhất trong năm nay, là 3,095 real/USD. Các thị trường tài chính của nước này đang hoảng loạn sau khi Hạ nghị viện chấp thuận cho Quốc hội giành được quyền kiểm soát nhiều hơn đối với ngân sách liên bang. Dự báo tình hình ở Brazil sẽ tiếp tục chi phối thị trường cà phê trong tương lai gần thông qua biến động tỷ giá nội tệ.
Rabobank đã nâng dự báo về lượng thiếu hụt cà phê toàn cầu trong năm 2019/20 lên 2,3 triệu bao (loại 60 kg/bao) từ mức 1,2 triệu bao dự báo trước đây.
Mặt hàng đường cũng giảm giá trong phiên vừa qua, với đường thô giảm 0,01 UScent tương đương 0,1% xuống 12,58 UScent/lb, trong khi đường trắng giảm 1,5 USD tương đương 0,5% xuống 330,1 USD/tấn.
Giá đậu tương kỳ hạn tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 4 tháng do lo ngại tiến triển chậm lại trong các cuộc đàm phán thương mại Mỹ- Trung sẽ diễn ra trong tuần này tại Bắc Kinh và vụ thu hoạch đậu tương bội thu tại Nam Mỹ và đồng real yếu có thể thúc đẩy nông dân bán ra tại Brazil.
Giá đậu tương kỳ hạn tại Chicago giảm 13-1/4 cent xuống mức 8,87-1/2 giạ, mức thấp nhất kể từ 27/11.
Giá cao su kỳ hạn tại Sàn giao dịch hàng hóa Tokyo tăng hơn 1% do hoạt động mua vào nhưng triển vọng tăng trưởng kinh tế suy giảm đang hạn chế lợi nhuận. Giá hợp đồng cao su Tokyo hàng tháng 9/2019 tăng 2,1 yên, hoặc 1,1% đạt 185,8 JPY(1,68 USD)/kg. Giá cao su TSR 20 tại hợp đồng giao hàng tháng 9/2019 tăng 0,5% đạt 163 JPY/kg.
Trong khi đó, giá hợp đồng cao su giao tháng 5/2019 tại Thượng Hải giảm 190 CNY đạt 11.335 CNY(1,687 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2019 tại Singapore giảm 1,2% còn 143,9 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
59,41
|
-0,53
|
-0,9%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
67,83
|
-0,14
|
-0,2%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
44.610,00
|
-490,00
|
-1,09%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,71
|
-0,03
|
-0,99%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
188,28
|
-1,27
|
-0,67%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
197,64
|
-0,42
|
-0,21%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
607,00
|
-2,75
|
-0,45%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
60.720,00
|
-550,00
|
-0,90%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.314,90
|
-2,00
|
-0,15%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.632,00
|
-36,00
|
-0,77%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,28
|
-0,02
|
-0,15%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
54,30
|
-0,70
|
-1,27%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
854,65
|
+1,07
|
+0,13%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.443,51
|
-9,91
|
-0,68%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
285,95
|
-0,35
|
-0,12%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.335,00
|
+5,00
|
+0,08%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.911,00
|
+23,00
|
+1,22%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.887,00
|
+14,00
|
+0,49%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
21.350,00
|
+50,00
|
+0,23%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
372,75
|
-1,00
|
-0,27%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
467,00
|
-2,50
|
-0,53%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
270,00
|
+0,25
|
+0,09%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,13
|
-0,02
|
-0,18%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
887,75
|
+0,25
|
+0,03%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
304,30
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,76
|
-0,06
|
-0,21%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
451,40
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.248,00
|
+11,00
|
+0,49%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
93,85
|
-1,50
|
-1,57%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,58
|
-0,01
|
-0,08%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
123,00
|
-5,50
|
-4,28%
|
Bông
|
US cent/lb
|
76,87
|
-0,08
|
-0,10%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
366,60
|
-2,60
|
-0,70%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
180,90
|
-4,90
|
-2,64%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,38
|
-0,03
|
-1,98%
|
Nguồn: Bloomberg, Reuters,