Năng lượng: Giá dầu sụt giảm
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9 trên sàn New York tăng 23 US cent (0,47%) so với phiên trước đó, lên 48,82 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao tháng 10/2017 tại thị trường London cũng tăng 20 US cent (0,39%), lên 52,10 USD/thùng. Tuy nhiên tính chung cả tuần qua, giá dầu WTI giảm 1,5%, trong khi giá dầu Brent mất 0,6% do liên tiếp giảm mấy phiên đầu tuần.
Hoạt động khai thác tại mỏ dầu lớn nhất của Libya đã trở lại bình thường và giới đầu tư lo ngại về xu hướng gia tăng sản lượng dầu của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và Mỹ.
Các nhà phân tích cho hay giới đầu tư đang quan ngại rằng những nỗ lực hiện nay của các nhà sản xuất chủ chốt trên thế giới nhằm hạn chế sản lượng dầu mỏ có thể là không đủ để giúp cân bằng thị trường.
Theo báo cáo hàng tháng của OPEC, tổ chức này đã tăng sản lượng khai thác thêm 173.000 thùng/ngày trong tháng 7, nâng tổng mức khai thác của OPEC lên 32,87 triệu thùng/ngày. Việc sản lượng dầu thô tăng lên cho thấy các nước thành viên OPEC đang gặp khó khăn trong việc tuân thủ thỏa thuận cắt giảm nguồn cung để góp phần cân bằng thị trường.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho hay lượng dầu thô dự trữ của nước này đã giảm 6,5 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 4/8 xuống còn 475,4 triệu thùng, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Con số này cao hơn mức giảm dự kiến chỉ là 2,7 triệu thùng.
Cuối tuần, thị trường xuất hiện một số dấu hiệu tích cực: hoạt động khai thác dầu của Mỹ đang đi vào ổn định, tình trạng bất ổn tại Nigeria và nhu cầu dầu mỏ toàn cầu cải thiện.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) vừa điều chỉnh nâng dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu trong năm 2017, thêm 1,5 triệu thùng/ngày lên 97,6 triệu thùng/ngày.
Trong khi đó, báo cáo hàng tuần từ công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes cho hay, số giàn khoan dầu đang hoạt động tại Mỹ chỉ tăng nhẹ trong tuần này, do các công ty dầu khí cắt giảm kế hoạch chi tiêu nhằm phản ứng trước tình trạng dầu liên tục mất giá.
Cụ thể, theo Baker Hughes, số giàn khoan dầu đang hoạt động của Mỹ đã tăng 3 chiếc trong tuần này, lên 768 chiếc, mức cao nhất kể từ tháng 4/2015.
Thêm một nhân tố khác hỗ trợ giá dầu phiên cuối tuần này là hoạt động xuất khẩu dầu tại Nigeria bị gián đoạn. Trước đó, xuất khẩu dầu của Nigeria dự kiến đạt mức cao nhất 17 tháng trong tháng 8 này.
Bên cạnh vấn đề cung - cầu, các nhà đầu tư cũng đang theo dõi sát sao những diễn biến xoay quanh căng thẳng Mỹ-CHDCND Triều Tiên liên quan tới chương trình hạt nhân của Bình Nhưỡng.
OPEC mới đây đã nâng mức dự báo nhu cầu dầu thô trong năm 2018 do lượng tiêu thụ trên toàn cầu đang tăng cao. Đồng thời tổ chức này cũng chỉ ra dấu hiệu của thị trường dầu đang dần mạnh trở lại.
Trong một báo cáo hàng tháng, OPEC nhận định thế giới sẽ cần khoảng 32,42 triệu thùng dầu của họ mỗi ngày trong năm tới, tăng 220.000 thùng so với mức dự báo trước đó. OPEC cũng kỳ vọng rằng trong năm 2018, lượng tiêu thụ dầu thô trên thế giới sẽ tăng khoảng 1,28 triệu thùng/ngày.
OPEC cho hay thị trường dầu mỏ ở châu Âu và Nam Phi đang vững trở lại và giá dầu Brent giao ngay tăng cao hơn so với giá dầu kỳ hạn đã chứng tỏ lượng dầu thừa đang dần được rút.
Kim loại quý: Giá vàng có tuần tăng giá mạnh nhất kể từ giữa tháng 4
Phiên cuối tuần, giá vàng tiếp tục đà tăng của phiên trước đó. Vàng giao ngay giá tăng 0,2%, lên 1.287,91 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 7/6 là 1.291,86 USD/ounce; trong khi đó vàng giao tháng 12/2017 cũng tiến 0,3% lên 1.294 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 6/6. Tính chung cả tuần, loại hợp đồng này này tăng 2,3%, ghi dấu tuần tăng giá mạnh nhất kể từ tuần kết thúc vào ngày 13/4.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,2%, lên 17,10 USD/ounce, sau khi chạm mức cao nhất kể tư ngày 14/6 vào phiên trước đó. Giá kim loại này tăng 5,3% trong cả tuần qua, mức tăng theo tuần mạnh nhất kể từ tháng 7/2016. Giá bạch kim cũng tăng 1% trong phiên 11/8, lên 986,20 USD/ounce, sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 6/3. Giá kim loại này tăng khoảng 2,8% trong tuần này. Trong khi đó, giá palađi lại gần như đi ngang trong phiên cuối tuần, ghi nhận mức tăng 2% cho cả tuần.
Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ tăng "khiêm tốn" hơn dự kiến trong tháng 7 vừa qua góp phần hậu thuẫn giá vàng trong phiên cuối tuần, bởi giới đầu tư cho rằng tỷ lệ lạm phát tăng chậm sẽ khiến Fed trì hoãn nâng lãi suất. Thông tin trên đã đẩy chỉ số đồng USD xuống mức thấp nhất trong 1 tuần.
Nông sản: Giá đường giảm, cà phê tăng
Phiên giao dịch cuối tuần, giá đường thô giảm phiên thứ 4 liên tiếp và xuống thấp nhất 6 tuần, sau số liệu cho thấy sản lượng tăng ở nước sản xuất lớn nhất thế giới là Brazil và dự báo các nhà sản xuất sẽ tăng cường bán ra.
Đường thô giao tháng 10 trong phiên cuối tuần giá giảm 0,04 US cent tương đương 0,3% so với phiên trước đó xuống 13,2 US cent/lb, hợp đồng giao ngay giá giảm xuống mức thấp nhất kể từ 29/6 là 13,11 US cent. Tính chung cả tuần, hợp đồng giao ngay mất giá 6,6%, nhiều nhất trong vòng hơn 2 tháng.
Đường trắng giao tháng 10 giá cũng giảm 2,10 USD/ tương đương 0,6% trong phiên cuối tuần xuống 364,40 USD/tấnm trong phiên có lúc giá chỉ 363,30 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 9/2015.
Cà phê trong phiên cuối tuần tăng giá, với robusta giao tháng 9 giá tăng 49 USD tương đương 2,3% lên 2.139 USD/tấn, arabica tăng 1,85 US cent tương đương 1,3% lên 1,4385 USD/lb.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
5/8
|
12/8
|
12/8 so với 11/8
|
12/8 so với 11/8 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
49,58
|
48,82
|
+0,23
|
+0,47%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
52,42
|
52,10
|
+0,20
|
+0,39%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
35.520,00
|
34.400,00
|
-1.060,00
|
-2,99%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,77
|
2,98
|
0,00
|
-0,07%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
164,63
|
161,30
|
+1,02
|
+0,64%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
164,86
|
163,46
|
+0,33
|
+0,20%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
488,00
|
482,50
|
-4,00
|
-0,82%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
49.780,00
|
49.390,00
|
-560,00
|
-1,12%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.264,60
|
1.294,00
|
+3,90
|
+0,30%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.471,00
|
4.500,00
|
-10,00
|
-0,22%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,25
|
17,07
|
+0,01
|
+0,03%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
58,30
|
59,50
|
-0,40
|
-0,67%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
964,23
|
985,00
|
+3,27
|
+0,33%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
878,08
|
894,20
|
-4,77
|
-0,53%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
288,50
|
291,20
|
+0,90
|
+0,31%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.372,00
|
6.411,00
|
-12,00
|
-0,19%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.910,50
|
2.042,50
|
+5,50
|
+0,27%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.812,00
|
2.896,50
|
-41,50
|
-1,41%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.510,00
|
20.305,00
|
-20,00
|
-0,10%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
381,00
|
374,75
|
+3,75
|
+1,01%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
454,75
|
467,00
|
-1,75
|
-0,37%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
284,25
|
263,25
|
-3,75
|
-1,40%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,33
|
12,50
|
+0,25
|
+2,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
956,75
|
945,00
|
+4,75
|
+0,51%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
309,40
|
304,20
|
+4,00
|
+1,33%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
34,03
|
33,99
|
-0,17
|
-0,50%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
500,30
|
506,90
|
+0,70
|
+0,14%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.021,00
|
1.977,00
|
+12,00
|
+0,61%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
140,15
|
143,85
|
+1,85
|
+1,30%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,14
|
13,20
|
-0,04
|
-0,30%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
135,30
|
136,10
|
+0,55
|
+0,41%
|
Bông
|
US cent/lb
|
70,62
|
68,25
|
+0,14
|
+0,21%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
373,80
|
365,40
|
-0,10
|
-0,03%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
207,10
|
213,40
|
-0,70
|
-0,33%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,58
|
1,58
|
+0,03
|
+1,61%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg