Năng lượng: Giá dầu tăng nhẹ trong tuần
Giá dầu tăng trong phiên cuối tuần do căng thẳng tại Trung Đông, nhưng đồng USD tăng mạnh và số liệu lạm phát của Mỹ đã làm giảm kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ sớm cắt giảm lãi suất.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent tăng 49 US cent, tương đương 0,55%, lên 89,5 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 28 US cent, tương đương 0,34%, lên 83,85 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu tăng nhẹ, từ 1-3 USD/thùng.
Mối lo ngại về nguồn cung đã hỗ trợ giá khi căng thẳng tại Trung Đông vẫn tiếp diễn.
Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu cho biết bất kỳ phán quyết nào của Tòa án Hình sự Quốc tế, cơ quan đang điều tra các cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 của Hamas nhằm vào Israel và cuộc tấn công quân sự của Israel vào Gaza, sẽ không ảnh hưởng đến hành động của Israel nhưng sẽ "đặt ra một tiền lệ nguy hiểm".
Tim Snyder, nhà kinh tế trưởng tại Matador Economics, cho biết: “Yếu tố địa chính trị vẫn chưa kết thúc, các cuộc chiến đang diễn ra hiện nay sẽ tiếp tục” và điều này vẫn đang thúc đẩy giá dầu tăng, mặc dù dữ liệu lạm phát gây bất lợi cho thị trường dầu mỏ.
Ap lực kinh tế vĩ mô đã hạn chế mức tăng sau khi dữ liệu công bố hôm thứ Sáu cho thấy lạm phát của Mỹ ngày càng tăng.
Trong 12 tháng tính đến tháng 3/2024, lạm phát của Mỹ tăng 2,7% sau khi tăng 2,5% tính tới háng 2/2024. Mức tăng của tháng 3/2024 phù hợp với dự đoán của các nhà kinh tế. Fed đặt ra mục tiêu lạm phát 2%. Ngân hàng trung ương Mỹ dự kiến sẽ giữ nguyên lãi suất tại cuộc họp chính sách vào tuần tới.
John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC, cho biết: “Dữ liệu kinh tế sáng nay đủ để những người tham gia thị trường kết luận rằng Fed sẽ không sớm cắt giảm lãi suất”.
Kilduff nói thêm: “Những biến động địa chính trị trên thị trường là điều đang giúp giá dầu tiếp tục tăng. Hai thế lực cạnh tranh đó sẽ giúp giá dầu luôn trong tầm kiểm soát”.
Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen hôm thứ Năm nói rằng tăng trưởng GDP của Mỹ trong quý đầu tiên có thể được điều chỉnh tăng và lạm phát sẽ giảm bớt sau khi một loạt các yếu tố "đặc biệt" khiến nền kinh tế ở mức yếu nhất trong gần hai năm. Giá dầu đã đi xuống sau những những bình luận của bà Yellen.
Trong khi đó, đồng đô la tăng vọt lên mức cao nhất trong 34 năm so với đồng yên vào thứ Sáu, một phần được củng cố bởi dữ liệu lạm phát của Mỹ.
Kim loại quý: Giá vàng trong tuần giảm mạnh nhất nhiều tháng
Giá vàng phiên cuối tuần tăng sau số liệu cho thấy lạm phát của Mỹ tăng phù hợp với kỳ vọng, song tính chung cả tuần giá giảm mạnh do căng thẳng địa chính trị dịu lại.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 2.338,65 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn New York tăng 0,2% lên 2.347,2 USD/ounce.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá giảm mạnh nhất kể từ tháng 12/2023 do căng thẳng tại Trung Đông giảm bớt.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay phiên này giảm 0,6% xuống 27,28 USD mỗi ounce, bạch kim giảm 0,1% xuống 915,10 USD và palladium giảm 1,9% xuống 956,25 USD.
Tính chung cả tuần, giá cả 3 kim loại quý này đều giảm.
Impala Platinum cho biết việc tái cơ cấu các hoạt động tại Nam Phi có thể khiến 3.900 người mất việc làm khi giá kim loại thấp.
Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ tháng 3/2024 tăng 0,3%, phù hợp với dự báo. Như vậy, khó có thể thay đổi việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất trước tháng 9/2024.
Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm sau số liệu được công bố, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn.
Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết dữ liệu tiếp tục cho thấy “lạm phát có thể sẽ tiếp tục dai dẳng, nhưng phản ứng của vàng cho thấy thị trường đã đoán trước điều này”.
Quỹ đạo của vàng “phụ thuộc vào tâm lý chung đối vói tài sản rủi ro và khối lượng mua từ Viễn Đông”. Ông dự đoán trong ngắn hạn giá sẽ ở mức 2.300 USD đến 2.400 USD/ounce.
Các thị trường ban đầu dự kiến đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên của Mỹ sẽ diễn ra vào tháng 3, sau đó là tháng 6 và bây giờ là tháng 9 trong bối cảnh dữ liệu kinh tế mạnh mẽ.
Trong khi vàng theo truyền thống được coi là hàng rào chống lạm phát thì lãi suất tăng làm giảm sức hấp dẫn của việc nắm giữ vàng thỏi không sinh lãi.
“Gần đây, các tín hiệu từ Mỹ về việc sẽ duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ ít nhiều đã ảnh hưởng đến giá vàng. Nếu điều này không còn xảy ra và thị trường tiếp tục dự đoán Mỹ sẽ không sớm thay đổi lãi suất, vàng có thể giảm giá hơn nữa”, Commerzbank cho biết.
Hiệp hội Vàng Trung Quốc cho biết tiêu thụ vàng của nước này trong quý đầu tiên đã tăng gần 6% so với một năm trước đó.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tuần qua mạnh, quặng sắt tăng tuần thứ 3 liên tiếp
Giá đồng trên sàn London phiên cuối tuần vượt ngưỡng 10.000 USD/tấn đạt mức cao nhất 2 năm do lo ngại về nguồn cung và hoạt động mua mạnh.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,9% lên 9.950,5 USD/tấn, sau khi đạt 10.033,5 USD/tấn – cao nhất kể từ tháng 4/2022. Tính chung cả tuần giá tăng mạnh.
Được sử dụng trong ngành điện và xây dựng, mặt hàng đồng đã thu hút thêm sự chú ý từ các nhà đầu tư sau khi BHP đề xuất mua lại Anglo American trị giá 39 tỷ USD.
Nhà phân tích hàng hóa Ewa Manthey của ING cho biết: “Suy đoán về sự thiếu hụt nguồn cung đồng đang đẩy giá lên mức cao mới. Đồng thời, các nhà đầu tư đang chuyển sang lạc quan về nhu cầu từ lĩnh vực năng lượng xanh. Việc BHP tham gia đấu thầu mua Anglo American làm nổi bật yếu tố nguồn cung sắp bị siết chặt”.
Dan Smith, người phụ trách bộ phận nghiên cứu tại Amalgamated Metal Trading cho biết, trong số các động lực ngắn hạn thì yếu tố chính là lo ngại về nguồn cung nguyên liệu thô bị thắt chặt, điều này thể hiện rõ từ phí xử lý đồng giao ngay thấp ở nước tiêu dùng hàng đầu thế giới - Trung Quốc.
Tuy nhiên, ông Smith cho biết hai yếu tố khác báo hiệu rằng đồng có thể không duy trì được mức giá cao hiện tại trong những tháng tới. Thứ nhất, vị thế đầu cơ ròng hiện ở mức cao so với phạm vi lịch sử. Thứ hai, mức chênh lệch (trừ lùi) giữa hợp đồng kỳ hạn giao ngay so với kỳ hạn 3 tháng đang tăng lên.
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này tăng 0,1% lên 2.566,50 USD/tấn, niken ổn định ở mức 19.145,00 USD, thiếc giảm 1,3% xuống 32.340 USD, kẽm giảm 0,1% xuống 2.843,50 USD trong khi chì tăng 0,1% lên 2.208,50 USD.
Tính chung cả tuần, giá đồng loạt giảm.
Đối với nhóm kim loại đen, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng tuần thứ 3 liên tiếp do nhu cầu cải thiện tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới, mặc dù tồn trữ tại cảng tăng cao.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Đại Liên tăng 0,06% lên 884,5 CNY (122,07 USD)/tấn; tính chung cả tuần giá tăng 2%. Quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Singapore tăng 0,13% lên 118,45 USD/tấn; tính chung cả tuần, giá tăng 1,7%.
Tồn trữ quặng sắt tại các cảng lớn trong tuần tính đến ngày 26/4/2024 tăng 1,4% lên 147,59 triệu tấn – cao nhất kể từ tháng 4/2022, công ty tư vấn Mysteel cho biết.
Giá thép phiên này cũng tăng. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,08%, thép không gỉ tăng 0,63%, thép cuộn cán nóng giảm 0,13% và thép cuộn giảm 1,28%.
Các nhà phân tích cho biết, lượng quặng sắt tồn kho tại các cảng tăng liên tục khiến các nhà đầu tư thận trọng, đặc biệt khi mức tiêu thụ thép trong tháng 5 dự kiến sẽ chậm lại do mùa mưa đến các khu vực phía Nam.
Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy tồn kho quặng sắt tại các cảng lớn của Trung Quốc tính đến ngày 26/4 tăng 1,4% so với tuần trước lên 147,59 triệu tấn, cao nhất kể từ tháng 4/2022.
Trong khi đó, sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày của các nhà máy được khảo sát đã tăng tuần thứ tư liên tiếp, thêm 1,1% lên 2,29 triệu tấn - cao nhất kể từ tháng 12 năm 2023, theo Mysteel.
Chu Xinli, nhà phân tích tại China Futures có trụ sở tại Thượng Hải, cho biết: “Chúng tôi kỳ vọng giá sẽ ổn định hơn nữa trước kỳ nghỉ lễ tháng Năm, nhưng giá có thể phải đối mặt với áp lực giảm nếu nhu cầu thép từ lĩnh vực xây dựng không đạt kỳ vọng sau kỳ nghỉ lễ”.
Các nhà phân tích tại Hongyuan Futures cho biết giá quặng cùng với giá than cốc tăng làm suy yếu khả năng cạnh tranh về chi phí của nguyên liệu thô sản xuất thép.
Ngoài ra, các nhà đầu tư và thương nhân cũng chờ đợi chỉ đạo từ cuộc họp của Bộ Chính trị, dự kiến sẽ được tổ chức vào cuối tháng 4.
Nông sản: Giá đường và cao su giảm trong tuần, cà phê tăng
Giá lúa mì Mỹ tăng trong phiên cuối tuần do thời tiết tăng đột biến, tính chung cả tuần tăng mạnh nhất kể từ khi bắt đầu cuộc chiến Nga-Ukraine. Giá đậu tương kỳ hạn giảm nhẹ trong khi ngô tương đối ổn định.
Hợp đồng lúa mì kỳ hạn tháng 7 trên sàn Chicago kết thúc phiên tăng 1-3/4 cent lên 6,22-1/4 USD/bushel, trước đó có lúc đạt 6,33-1/4 USD/bushel, mức giá cao nhất kể từ ngày 11 tháng 1.
Thời tiết khô hạn ở các vùng phía nam nước Nga và miền trung nước Mỹ, cũng như thời tiết băng giá ở các vùng ở châu Âu tiếp tục khiến thời tiết có thời tiết ngắn, mặc dù dự báo thời tiết
Giá ngô kỳ hạn tháng 7 giảm 2 US cent xuống 4,50 USD/bushel, trong khi đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 2,5 US cent xuống 11,77-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn ICE giảm 0,08 US cent tương đương 0,4% xuống 19,4 US cent/lb; tính chung cả tuần, giá giảm 1,7%. Đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn London tương đối ổn định ở mức 563,7 USD/tấn.
Sản lượng đường ở Trung-Nam Brazil vào đầu tháng 4/2024 là 710,00 tấn, tăng 30,97% so với cùng kỳ năm trước, theo tập đoàn công nghiệp đường UNICA. Một cuộc khảo sát do S&P Global Commodity Insights ước tính sản lượng đường của Trung-Nam Brazil trong kỳ là 689.300 tấn.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn London giảm 153 USD tương đương 3,6% xuống 4.151 USD/tấn, giảm từ mức cao kỷ lục 4.338 USD/tấn trong phiên ngày 25/4/2024. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá tăng 2%. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2024 trên sàn ICE giảm 1,8% xuống 2,24 USD/lb; tính chung cả tuần, giá giảm 3,4%.
Các đại lý cho biết mức giảm nhẹ không phải là điều bất ngờ, do giá đã tăng khoảng 40% trong hai tháng qua, nhưng thị trường vẫn được hỗ trợ bởi nguồn cung thắt chặt.
Nguồn cung đặc biệt khan hiếm ở Việt Nam - nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới, nơi cũng đang lo ngại rằng thời tiết khô hạn có thể làm ảnh hưởng đến triển vọng vụ mùa tiếp theo.
Giá cao su tại Nhật Bản đảo chiều tăng trở lại sau 3 phiên liên tiếp giảm, trong bối cảnh giá dầu tăng cao và đồng JPY suy yếu, song vẫn có tuần giảm.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 3,3 JPY tương đương 1,09% lên 305,4 JPY (1,96 USD)/kg. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá cao su giảm 1,74% - tuần giảm thứ 4 liên tiếp – chuỗi tuần giảm dài nhất kể từ đầu tháng 8/2023. Cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 105 CNY tương đương 0,75% lên 14.195 CNY (1.959,39 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Singapore tăng 0,82% lên 159,8 US cent/kg.
Đồng yên chạm mức yếu nhất trong ba thập kỷ so với đồng đô la Mỹ sau khi Ngân hàng Nhật Bản giữ nguyên lãi suất vào thứ Sáu. Đồng tiền yếu hơn làm cho tài sản bằng đồng yên trở nên hợp lý hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Thị trường tài chính Nhật Bản đóng cửa nghỉ lễ vào thứ Hai và sẽ mở cửa trở lại vào thứ Ba, ngày 30 tháng 4.
Giá hàng hóa thế giới: 

ĐVT

Giá 19/4

Giá 26/4

26/4 so với 25/4

26/4 so với 25/4 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

82,92

83,85

+0,28

+0,34%

Dầu Brent

USD/thùng

86,55

89,50

+0,49

+0,55%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

269,21

276,46

+0,64

+0,23%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,75

1,92

-0,06

-3,17%

Dầu đốt

US cent/gallon

252,19

254,82

-0,22

-0,09%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.391,20

2.347,20

+4,70

+0,20%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.375,67

2.337,96

+5,50

+0,24%

Bạc (Comex)

USD/ounce

28,72

27,54

-0,10

-0,35%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

935,98

917,04

-1,80

-0,20%

Đồng (Comex)

US cent/lb

456,40

457,40

+3,55

+0,78%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.876,00

9.965,50

+100,50

+1,02%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.669,00

2.569,50

+6,00

+0,23%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.852,00

2.844,00

-4,00

-0,14%

Thiếc (LME)

USD/tấn

35.582,00

32.411,00

-461,00

-1,40%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

442,50

450,00

-2,00

-0,44%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

569,50

622,25

+1,75

+0,28%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

348,50

358,75

+7,75

+2,21%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

19,23

18,98

-0,19

-1,02%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.164,50

1.177,25

-2,50

-0,21%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

341,00

344,70

-2,90

-0,83%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

45,11

45,54

+0,11

+0,24%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

625,60

634,40

-2,50

-0,39%

Cacao (ICE)

USD/tấn

11.461,00

10.594,00

-210,00

-1,94%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

231,85

224,00

-4,10

-1,80%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

19,50

19,09

-0,07

-0,37%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

361,40

373,30

+3,80

+1,03%

Bông (ICE)

US cent/lb

82,34

80,90

-0,18

-0,22%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

164,20

159,90

+1,20

+0,76%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)