Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khoảng 2% do dự đoán nhu cầu toàn cầu sẽ mạnh lên khi Trung Quốc mở cửa nền kinh tế trở lại và do số liệu kinh tế Mỹ tích cực.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 1,35 USD hay 1,6% lên 87,47 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 86 US cent hay 1,1% lên 81,01 USD/thùng.
Nền kinh tế Mỹ tăng nhanh hơn dự kiến trong quý 4/2022, nhưng chi phí vay mượn - thước đo nhu cầu trong nước - tăng với tốc độ chậm nhất trong 2,5 năm.
Tồn trữ dầu thô của Mỹ tăng 533.000 thùng lên 448,5 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 20/1, theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ EIA. Số liệu này thấp hơn dự báo tăng 1 triệu thùng, mặc dù EIA cho biết dự trữ dầu thô ở mức cao nhất kể từ tháng 6/2021.
Trung Quốc đang nới lỏng các biện pháp hạn chế nghiêm ngặt Covid-19 trong tháng này, Bắc Kinh mở lại biên giới lần đầu tiên trong 3 năm.
Hội đồng bộ trưởng OPEC+ nhóm họp vào ngày 1/2 có thể đề xuất mức sản lượng hiện nay của tổ chức này.
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ khó vượt 2% trong năm nay, theo một thăm dò của Reuters với các nhà kinh tế, cho thấy khả năng có thể hạ hơn nữa. Điều đó trái với sự lạc quan lan rộng trên các thị trường kể từ đầu năm nay.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD tăng và số liệu kinh tế của Mỹ mạnh điều đó có thể thúc đẩy Cục dự trữ Liên bang tiếp tục tăng lãi suất trong thời gian dài hơn.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.931,37 USD/ounce, sau khi có lúc giảm xuống 1.918,49 USD. Giá cũng đạt cao nhất kể từ tháng 4/2022 là 1.949,09 USD/ounce lúc đầu phiên giao dịch này. Giá vàng Mỹ kỳ hạn tháng 2 đóng cửa giảm 0,7% xuống 1.930 USD/ounce.
Kinh tế Mỹ duy trì tốc độ tăng trưởng mạnh trong quý 4/2022 do người tiêu dùng tăng cường chi tiêu cho hàng hóa, nhưng đà tăng đã chậm lại đáng kể vào cuối năm.
Chỉ số USD tăng 0,2% khiến vàng kém thu hút cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu cũng giảm nhiều hơn dự kiến, báo hiệu một thị trường lao động tốt hơn.
Giá bạc giao ngay phiên này vững ở mức 23,90 USD/ounce, bạch kim giảm 1,8% xuống 1.021,25 USD trong khi palladium giảm 1,4% xuống 1.674,77 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do lo ngại về nguồn cung nhưng đà tăng bị hạn chế bởi kỳ nghỉ Tết kéo dài một tuần tại Trung Quốc, làm giảm hoạt động của thị trường và nhu cầu kim loại.
USD yếu và hy vọng nhu cầu của Trung Quốc mạnh lên sau khi quốc gia này bỏ chính sách zero Covid đã đẩy giá đồng tăng hơn 20% kể từ tháng 11, nhưng giá hầu như tăng không đáng kể kể từ khi các thị trường Trung Quốc đóng cửa.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,5% lên 9.358 USD/tấn. Giao dịch là yếu khi các thị trường tại Ấn Độ và Australia cũng như Trung Quốc đóng cửa.
Giá chì tăng phiên thứ ba liên tiếp và tăng 1,8% lên 2.198,50 USD/tấn, trong khi niken tăng 0,4% lên 29.300 USD. Giá thiếc tăng 4,5% lên 32.240 USD/tấn sau khi đạt 32.400 USD, mức cao nhất kể từ tháng Sáu.
Trên thị trường nông sản, giá ngô tăng do xuất khẩu của Mỹ mạnh và lo ngại về nguồn cung toàn cầu.
Hợp đồng ngô kỳ hạ tháng 3 trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa tăng 7-3/4 US cent lên 6,82-1/2 USD/bushel; giá đậu tương tăng 1,4% lên mức cao nhất một tuần do báo cáo xuất khẩu mạnh. Giá khô đậu tương và dầu đậu tương cũng tăng, với dầu đậu tương phục hồi từ mức thấp nhất 6 tuần.
Giá đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 3 đóng cửa tăng 21 US cent lên 15,23-1/2 USD/bushel, tăng trên mức trung bình trong 10 ngày. Giá lúa mì tăng được hỗ trợ bởi dấu hiệu nhu cầu xuất khẩu đường biển tăng và lo ngại tình trạng thiếu hụt do xung đột Nga – Ukraine. Lúa mì mềm đỏ vụ đông trên sàn giao dịch Chicago tăng 11-1/4 US cent lên 7,52-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 đóng cửa tăng 0,57 US cent hay 2,8% lên 20,68 US cent/lb, giá đã tăng lên 20,85 US cent trong phiên này; đường trắng kỳ hạn tháng 3 tăng 8 USD hay 1,5% lên 555 USD/tấn.
Các đại lý lưu ý ít người muốn bán ra và với giá đường đóng cửa trên 20 US cent trong ngày 25/1, động lực kỹ thuật sẽ đẩy giá tăng trong ngắn hạn.
Đường cũng được hỗ trợ bởi dự đoán rộng rãi rằng chính phủ Ấn Độ sẽ xác nhận một lệnh cấm xuất khẩu thêm đường trong niên vụ này.
Lượng mía đường sản xuất tại trung nam Brazil đạt tổng cộng chỉ 440.000 tấn trong nửa đầu tháng 1, do chỉ một số ít nhà máy tiếp tục hoạt động trong giai đoạn giữa vụ thu hoạch.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 lúc đóng cửa tăng 4,7 US cent hay 2,9% lên 1,6715 USD/lb, giá đã chạm đỉnh 3 tuần tại 1,6775 USD; cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 tăng 23 USD hay 1,2% lên 1.962 USD/tấn.
Giá trong vài tuần qua đã tăng trở lại sau khi chạm mức thấp nhất 1,5 năm tại 1,4305 USD vào ngày 11/1. Dự trữ cà phê được chứng nhận ICE tăng nhẹ lên 870.722 bao.
Giá cao su trên thị tường Nhật Bản tiếp tục tăng lên mức cao nhất trong hơn 3 tháng, do hy vọng sự phục hồi kinh tế tại Trung Quốc. Tuy nhiên khối lượng giao dịch vẫn thấp do Trung Quốc nghỉ Tết.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 1 JPY hay 0,4% lên 236 JPY (1,82 USD)/kg, đạt cao nhất kể từ ngày 11/10/2022; hợp đồng cao su kỳ hạn giao tháng 2 tháng trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore tăng 0,8% lên 147,0 US cent/kg.
Nhật Bản cắt giảm quan điểm về kinh tế tổng thể lần đầu tiên trong 11 tháng vào tháng 1, do sự lây nhiễm Covid-19 của Trung Quốc và nhu cầu công nghệ và bán dẫn chậm lại đã gây ảnh hưởng tới xuất khẩu đặc biệt sang Châu Á.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

81,45

+0,44

+0,54%

Dầu Brent

USD/thùng

87,94

+0,47

+0,54%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

65.890,00

+1.230,00

+1,90%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,92

-0,02

-0,82%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

262,48

+1,27

+0,49%

Dầu đốt

US cent/gallon

341,66

+2,01

+0,59%

Dầu khí

USD/tấn

974,50

+9,25

+0,96%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

78.500,00

--

--

Vàng New York

USD/ounce

1.942,10

-4,60

-0,24%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.026,00

-55,00

-0,68%

Bạc New York

USD/ounce

23,93

-0,09

-0,37%

Bạc TOCOM

JPY/g

23,93

-0,09

-0,37%

Bạch kim

USD/ounce

1.016,76

-4,93

-0,48%

Palađi

USD/ounce

1.669,69

-8,65

-0,52%

Đồng New York

US cent/lb

425,65

-1,10

-0,26%

Đồng LME

USD/tấn

9.329,50

+15,00

+0,16%

Nhôm LME

USD/tấn

2.639,00

-19,50

-0,73%

Kẽm LME

USD/tấn

3.486,50

+36,50

+1,06%

Thiếc LME

USD/tấn

32.262,00

+1.412,00

+4,58%

Ngô

US cent/bushel

683,25

+0,75

+0,11%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

748,00

-4,50

-0,60%

Lúa mạch

US cent/bushel

386,75

+0,50

+0,13%

Gạo thô

USD/cwt

18,26

-0,05

-0,30%

Đậu tương

US cent/bushel

1.525,25

+1,75

+0,11%

Khô đậu tương

USD/tấn

479,10

+2,00

+0,42%

Dầu đậu tương

US cent/lb

60,95

+0,16

+0,26%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

806,90

-0,20

-0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.629,00

+37,00

+1,43%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

167,15

+4,70

+2,89%

Đường thô

US cent/lb

20,68

+0,57

+2,83%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

205,50

+1,40

+0,69%

Bông

US cent/lb

87,43

-0,07

-0,08%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

488,20

+24,00

+5,17%

Cao su TOCOM

JPY/kg

148,90

0,00

0,00%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)