Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm thêm hơn 2% bởi những tín hiệu cho thấy các ngân hàng trung ương có thể chưa quyết định việc tăng lãi suất, trong khi dữ liệu ngành cho thấy dự trữ dầu thô và xăng của Mỹ giảm bất chấp đang mùa lái xe cao điểm - mùa hè.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent giảm 1,92 USD, tương đương 2,6%, xuống 72,26 USD/thùng. Trong khi đó, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,67 USD, tương đương 2,4%, xuống 67,7 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều dao động trong biên độ +/- 10 USD kể từ đầu tháng 5/2023. Nhà phân tích Craig Erlam của công ty Oanda cho biết giá cả chủ yếu phụ thuộc vào “những kỳ vọng về lãi suất luôn thay đổi”.
Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Christine Lagarde hôm thứ Ba cho biết lạm phát cao dai dẳng khiến ngân hàng không thể tuyên bố chấm dứt tăng lãi suất. Lãi suất cao hơn có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế và nhu cầu dầu mỏ.
Phil Flynn, nhà phân tích của Price Futures Group, cho biết: “Bất chấp những lo ngại về nền kinh tế đang chậm lại ở châu Âu, họ sẽ thúc đẩy kim loại này bằng lãi suất và điều đó gây áp lực giảm giá”.
Niềm tin của người tiêu dùng Mỹ trong tháng 6/2023 tăng lên mức cao nhất gần 1,5 năm, trong bối cảnh thị trường lao động lạc quan trở lại.
Nhưng dữ liệu lạc quan cho thấy Cục Dự trữ Liên bang có thể sẽ phải tiếp tục tăng lãi suất để làm chậm nhu cầu trong nền kinh tế nói chung. Ngân hàng trung ương Mỹ, đã tăng lãi suất chính sách thêm 500 điểm cơ bản kể từ tháng 3 năm 2022, trong tháng này đã báo hiệu sẽ có 2 đợt tăng lãi suất nữa trong năm nay.
Dữ liệu của Viện Dầu khí Mỹ hôm thứ Ba cho thấy tồn kho dầu thô và xăng của Mỹ đã giảm vào tuần trước. Các kho dự trữ dầu thô đã giảm khoảng 2,4 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 23 tháng 6, trong khi tồn kho xăng giảm khoảng 2,9 triệu thùng. Dữ liệu của chính phủ Mỹ về các kho dự trữ sẽ được công bố vào thứ Tư.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau số liệu cho thấy kinh tế Mỹ duy trì tăng mạnh, trong khi các thương nhân chuyển sự chú ý sang bài phát biểu của chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Jerome Powell và một số dữ liệu kinh tế quan trọng vào thứ Năm để có thể có thêm manh mối về các đợt tăng lãi suất trong tương lai.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 1.911,53 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 8/2023 giảm 0,5% xuống 1.923,8 USD/ounce. Tính từ đầu tháng đến nay, giá vàng giảm 2,6% - tháng giảm thứ 2 liên tiếp.
Niềm tin của người tiêu dùng Mỹ trong tháng 6/2023 tăng lên mức cao nhất gần 1,5 năm, trong khi doanh số bán nhà mới dành cho 1 gia đình trong tháng 5/2023 tăng 12,2%, cao hơn so với dự kiến.
Cùng với đó là lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn.
Giá vàng đã giảm khoảng 2,6% trong tháng này – là tháng thứ hai liên giảm - do đặt cược vào lãi suất của Mỹ cao hơn trong thời gian dài hơn đã làm giảm sức hấp dẫn của tài sản sinh lãi bằng 0 và làm lu mờ vai trò trú ẩn an toàn truyền thống của vàng ở một mức độ nào đó.
Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cấp cao tại RJO Futures, cho biết: “Từ nay đến thứ Năm, bạn sẽ thấy thị trường vàng đi ngang, giao dịch trôi dạt, không có người ở, trừ khi có điều gì khác xảy ra”.
Về các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 22,79 USD/ounce, là phiên tăng thứ ba liên tiếp; giá bạch kim giảm 0,2% xuống 922,78 USD và palladium giảm 0,6% xuống 1.297,89 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm sau khi một quan chức của Trung Quốc ra tín hiệu về việc sẽ có thêm các chương trình kích thích hơn nữa, làm bớt đi những lo ngại về iệc tăng trưởng chậm lại và lãi suất tăng ở phương Tây.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,4% xuống 8.357,5 USD/tấn. Tuy nhiên, so với thời điểm giá chạm mức thấp nhất gần 6 tháng cách đây khoảng 1 tháng, giá hiện nay cao hơn khoảng 7%.
Các kim loại cơ bản và thị trường tài chính rộng lớn đã được nâng đỡ bởi những bình luận từ Thủ tướng Trung Quốc Li Qiang, người nói rằng Trung Quốc sẽ thực hiện các bước để thúc đẩy nhu cầu và tiếp thêm sinh lực cho thị trường.
Amelia Xiao Fu, người đứng đầu bộ phận chiến lược thị trường hàng hóa của Bank of China International, cho biết: “Tôi có cảm giác rằng tất cả các biện pháp chính sách đó ở Trung Quốc sẽ vẫn được nhắm mục tiêu và vừa phải”. "Ngay cả khi bạn nhận được một số biện pháp từ Trung Quốc, tôi không nghĩ rằng nó sẽ khuyến khích một đợt tăng giá bền vững. Tôi nghĩ thị trường có thể sẽ bị giới hạn khá nhiều."
Bà nói thêm rằng lãi suất của Mỹ có thể tăng trở lại vào tháng 7 và đồng đô la có thể sẽ vẫn mạnh, tạo ra việc " duy trì áp lực vĩ mô đối với hàng hóa". Các nhà phân tích của Citi cho biết trong một lưu ý hôm thứ Ba rằng họ đã hạ dự báo GDP hàng năm cho Trung Quốc năm 2023 từ 6,1% xuống 5,5% do "niềm tin yếu ớt của các hộ gia đình, doanh nghiệp và nhà đầu tư ở Trung Quốc".
Về các kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này tăng 2% lên 2.192 USD/tấn, niken tăng 2,2% lên 20.760 USD, kẽm tăng 2,4% lên 2.384 USD trong khi chì tăng 1,3% lên 2.096 USD và thiếc tăng 2,3% lên 26.225 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á tăng do triển vọng kích thích kinh tế hơn nữa từ Trung Quốc và hoạt động bổ sung dự trữ của một số nhà máy thép sau kỳ nghỉ lễ.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 4,11% lên 824 CNY (114,24 USD)/tấn – cao nhất kể từ ngày 16/3/2023; quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 3,52% lên 112,9 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 20/6/2023.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 2,08%, thép cuộn cán nóng tăng 2,4%, thép cuộn tăng 3,15% và thép không gỉ tăng 0,14%.
Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc hôm thứ Hai đã họp và khuyến khích các tổ chức tài chính mở rộng việc phát hành các khoản vay trung và dài hạn cho ngành sản xuất, điều đó giúp cải thiện tâm lý của nhà đầu tư trên thị trường sắt thép.
Thị trường đã kỳ vọng vào một loạt các biện pháp hỗ trợ sẽ được công bố tại cuộc họp của bộ chính trị sẽ được tổ chức vào cuối tháng 7 để thúc đẩy sự phục hồi kinh tế chắp vá sau đại dịch ở Trung Quốc.
Nhiều nhà máy đã quay trở lại thị trường cảng để mua quặng sắt vào thứ Hai để đáp ứng nhu cầu sản xuất, với khối lượng giao dịch hàng ngày tăng 126% lên 961.000 tấn mỗi ngày, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
Nhà phân tích tại Mysteel cho biết trong một báo cáo, các máy cán lại tại trung tâm sản xuất thép hàng đầu của Trung Quốc - thành phố Đường Sơn - đã được yêu cầu tạm dừng sản xuất từ thứ Hai do dự báo ô nhiễm không khí trong những ngày tới. Tuy nhiên, các nhà phân tích đã loại bỏ tác động có thể có của việc giảm sản lượng thép đối với thị trường thép, vốn bị che mờ bởi nguồn cung quá mức và nhu cầu yếu theo mùa.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương Mỹ giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 tuần do dự báo mưa có lợi cho cây trồng tại Trung tây Mỹ - nơi chịu ảnh hưởng của thời tiết khô hạn. Trong khi đó, giá lúa mì kỳ hạn giảm hơn 5% khi những lo lắng về bất ổn chính trị ở Nga, nước xuất khẩu lúa mì hàng đầu thế giới, và vụ thu hoạch lúa mì mùa đông ở Bắc bán cầu, đã lắng xuống.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 27-1/4 US cent tương đương 4,6% xuống 5,61 USD/bushel, sau khi giảm xuống 5,55 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 15/6/2023. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 28-3/4 US cent tương đương 2,2% xuống 12,94-1/4 USD/bushel và giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 39-1/4 US cent tương đương 5,3% xuống 6,99 USD/bushel.
Giá đường thô và đường trắng phiên vừa qua đều giảm 3% xuống mức thấp nhất 3 tháng do nhu cầu yếu và vụ thu hoạch tại Brazil được cải thiện.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 0,69 US cent tương đương 2,9% xuống 23,03 US cent/lb – thấp nhất kể từ đầu tháng 4/2023; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 21,2 USD tương đương 3,3% xuống 627,2 USD/tấn – thấp nhất kể từ cuối tháng 3/2023 (614,5 USD/tấn).
"Không thể phủ nhận những vấn đề lớn về phía cung mà thị trường đường gặp phải, nhưng trong ngắn hạn, tôi lưu ý đến sự sụt giảm chênh lệch giá", Stephen Geldart, người đứng đầu bộ phận phân tích của công ty giao dịch Czarnikow, cho biết trong một ghi chú. "Hoàn toàn có khả năng tất cả mọi người đang tập trung vào nguồn cung và bỏ qua các vấn đề phía cầu."
Sản lượng đường tại Brazil trong nửa đầu tháng 6/2023 tăng 18% so với dự kiến và sản lượng mía tăng 26%, báo hiệu một vụ mùa bội thu.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE tăng 1,8 US cent tương đương 1,1% lên 1,6695 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 6 tháng (1,63 USD/lb) trong đầu phiên giao dịch; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London tăng 5 USD tương đương 0,2% lên 2.715 USD/tấn.
Dự kiến xuất khẩu cà phê robusta từ Brazil sẽ tăng trong những tháng tới có thể làm dịu đà tăng giá đã đạt mức kỷ lục trong tháng này, Rabobank cho biết trong một bản cập nhật hàng quý.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng, được hỗ trợ bởi giá dầu thô tăng, cùng với đó là kỳ vọng về sự phục hồi mạnh mẽ hơn của Trung Quốc trong quý 2/2023, sau bình luận của Thủ tướng Lý Cường cũng thúc đẩy nhu cầu đối với các tài sản rủi ro.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Osaka tăng 1,1 JPY tương đương 0,5% lên 205,6 JPY (1,43 USD)/kg, hồi phục từ mức thấp nhất 11 tuần trong phiên trước đó; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 85 CNY lên 11.950 CNY (1.657,6 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Singapore không thay đổi ở mức 131 US cent/kg.
Một thương nhân có trụ sở tại Singapore cho biết khẳng định trước đó của Thủ tướng Trung Quốc có thể đã ảnh hưởng đến các suy đoán của thị trường ngày hôm nay, đồng thời cho biết thêm rằng các nhà đầu tư đang chờ xem liệu có chuyển thành dữ liệu thực hay không vì hiện tại số liệu tăng trưởng hàng năm vẫn thấp hơn kỳ vọng.
Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Thiên Tân, Thủ tướng Trung Quốc nói với các đại biểu rằng nền kinh tế Trung Quốc đang trên đà đạt được mục tiêu tăng trưởng hàng năm khoảng 5% và "nền kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh hơn trong quý hai."
S&P Global đã cắt giảm dự báo tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong năm nay, nhấn mạnh tính chất không đồng đều trong quá trình phục hồi của nước này sau đại dịch.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

67,81

+0,11

+0,16%

Dầu Brent

USD/thùng

72,37

+0,11

+0,15%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

66.340,00

+120,00

+0,18%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,78

+0,01

+0,43%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

254,65

+2,97

+1,18%

Dầu đốt

US cent/gallon

241,42

+1,52

+0,63%

Dầu khí

USD/tấn

701,75

-8,50

-1,20%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

78.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.923,70

-0,10

-0,01%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.848,00

-27,00

-0,30%

Bạc New York

USD/ounce

23,11

-0,04

-0,16%

Bạc TOCOM

JPY/g

106,00

+0,30

+0,28%

Bạch kim

USD/ounce

922,26

-4,70

-0,51%

Palađi

USD/ounce

1.296,54

-2,18

-0,17%

Đồng New York

US cent/lb

378,20

-0,65

-0,17%

Đồng LME

USD/tấn

8.363,00

-28,00

-0,33%

Nhôm LME

USD/tấn

2.195,00

+46,50

+2,16%

Kẽm LME

USD/tấn

2.386,50

+58,50

+2,51%

Thiếc LME

USD/tấn

26.283,00

+648,00

+2,53%

Ngô

US cent/bushel

558,25

-2,75

-0,49%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

693,50

-5,50

-0,79%

Lúa mạch

US cent/bushel

405,75

-7,00

-1,70%

Gạo thô

USD/cwt

15,47

-0,24

-1,56%

Đậu tương

US cent/bushel

1.286,75

-7,50

-0,58%

Khô đậu tương

USD/tấn

382,40

-3,00

-0,78%

Dầu đậu tương

US cent/lb

57,26

+0,14

+0,25%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

713,50

-0,20

-0,03%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.258,00

0,00

0,00%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

166,95

+1,80

+1,09%

Đường thô

US cent/lb

22,98

-0,68

-2,87%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

260,50

+1,25

+0,48%

Bông

US cent/lb

77,17

+0,11

+0,14%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

129,60

-0,20

-0,15%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)