Năng lượng: Giá dầu gần như không thay đổi
Giá dầu thô Brent và dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) phiên cuối tuần gần như không thay đổi so với một tuần trước đó, mặc dù biến động trong tuần.
Phiên thứ Sáu (15/12), giá dầu kết thúc giảm nhẹ sau khi giao dịch giằng co trong gần suốt phiên, có lúc giảm hơn 1 USD/thùng khi các thương nhân cố gắng phân tích các tín hiệu trái chiều về nhu cầu dầu trong năm tới.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 6 US cent, hay 0,08%, xuống 76,55 USD/thùng; dầu WTI giảm 15 US cent, hay 0,21%, xuống 71,43 USD/thùng. Tính chung cả tuần, giá cả 2 loại dầu chỉ tăng vài cent.
Kết quả khảo sát sản xuất của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York cho thấy số lượng đơn hàng mới trong tháng 11 sụt giảm tháng thứ 3 liên tiếp. Đó có thể là dấu hiệu nhu cầu dầu giảm trong năm tới.
Phil Flynn, nhà phân tích thuộc Price Futures Group, cho biết: “Thị trường có vẻ nhạy cảm hơn một chút với mọi thông tin mới”. “Vẫn chưa chắc chắn rằng giá dầu đã chạm đáy.”
Các nhà giao dịch cũng bị chấn động bởi những bình luận từ Chủ tịch Ngân hàngDự trữ Liên bang New York John Williams về hy vọng cắt giảm lãi suất trong năm tới.
Hôm thứ Năm, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell cho biết việc tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát có thể đã kết thúc nhưng vẫn để ngỏ khả năng tăng thêm nữa.
Theo báo cáo hàng tháng của IEA, sản lượng dầu thế giới sẽ tăng 1,1 triệu thùng/ngày trong năm 2024. Con số đó cao hơn 130.000 thùng/ngày so với dự báo trước đó, nhưng ước tính này chưa bằng một nửa so với dự báo của OPEC – là nhu cầu tăng 2,25 triệu thùng/ngày. OPEC+ hồi cuối tháng 11 đã tình nguyện cắt giảm khoảng 2,2 triệu thùng/ngày trong quý đầu tiên của năm tới.
Kim loại quý: Giá vàng tăng trong tuần
Giá vàng giảm trong ngày thứ sáu, nhưng tính chung cả tuần tăng do Fed chuyển sang lập trường ôn hòa và dự kiến giảm lãi suất vào năm tới.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên này giảm 0,8% xuống 2.019,91 USD/ounce, nhưng tính chung cả tuần tăng 0,8%; vàng ghiao sau giảm 0,4% xuống 2.035,7 USD/ounce.
Everett Millman, nhà phân tích thị trường của Gainesville Coins, cho biết: “Thị trường vàng sẽ tiếp tục phản ánh những kỳ vọng từ Fed”. “Nếu nền kinh tế Mỹ không cải thiện vào đầu năm 2024 thì đó là một dấu hiệu rất mạnh mẽ cho thấy vàng sẽ tiếp tục đạt gần mức cao nhất mọi thời đại”.
Đầu tuần, Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết việc thắt chặt chính sách tiền tệ kéo dài có thể sẽ kết thúc khi cuộc thảo luận về việc giảm chi phí đi vay được "xem xét", một triển vọng được 17 trong số 19 nhà hoạch định chính sách khẳng định.
Công cụ CME FedWatch cho thấy thị trường đang dự đoán 70% cơ hội Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 3. Lãi suất thấp hơn làm tăng sức hấp dẫn của vàng thỏi không sinh lời.
Tuy nhiên, Chủ tịch Fed New York John Williams đã bác bỏ kỳ vọng ngày càng tăng của thị trường về việc cắt giảm lãi suất.
Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập có trụ sở tại New York, cho biết: “Nếu nhiều quan chức Fed bình luận trái ngược với phát biểu của Powell về FOMC trước Giáng sinh, thì chúng ta có thể thấy giá vàng điều chỉnh sâu hơn, nhưng điều này sẽ khiến thị trường hành động thận trọng hơn một chút”.
Đồng đô la ổn định nhưng có xu hướng giảm hàng tuần, khiến vàng trở nên rẻ hơn đối với người mua ở nước ngoài, trong khi lãi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm trải qua tuần tồi tệ nhất kể từ tháng 3.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 1,3% xuống 23,83 USD mỗi ounce, bạch kim giảm 1,8% xuống 940,75 USD. Cả hai đều tăng trong tuần qua.
Giá palladium tăng 6,6% lên 1.175,42 USD và có tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 3 năm 2022. Giá đã chạm mức thấp nhất trong 5 năm vào đầu tháng này.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng loạt tăng
Giá kim loại cơ bản đồng loạt tăng trong tuần qua, mặc dù tăng trong phiên cuối tuần.
Phiên thứ Sáu, giá đồng giảm do USD mạnh sau bình luận của một quan chức Fed làm dấy lên lo ngại về việc lãi xuất sẽ sớm được cắt giảm.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London LME giảm xuống 8.550 USD/tấn.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang New York cho bết còn quá sớm để nghĩ đến việc cắt giảm lãi suất hiện nay, đẩy lùi dự đoán của thị trường. Chỉ số USD phục hồi sau bình luận này, khiến các kim loại định giá bằng đồng bạc xanh này đắt hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Số liệu công bố hôm thứ Sáu cho thấy Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ đồng hàng đầu thế giới, đã ghi nhận mức tăng trưởng nhanh về sản lượng công nghiệp trong tháng 11. Nước này đã tăng cường nhập khẩu nhiều đồng trong nửa cuối năm nay do giá giảm.
Giá nhôm cũng có tuần tăng mạnh nhất trong vòng 5 tháng. Kết thúc phiên thứ Sáu, giá nhôm tăng 1,5% lên 2.242,50 USD/tấn, cao hơn khoảng 5% so với một tuần trước. Giá kẽm tăng 1,5% lên 2.531 USD/tấn, chì tăng 0,5% lên 2.078,50 USD, niken tăng 1% lên 17.135 USD, trong khi thiếc giảm 0,5% xuống 25.235 USD. Tính chung cả tuần, giá đồng, nhôm và các kim loại cơ bản khác đều tăng.
Đối với nhóm kim loại đen, giá quặng sắt giảm trong phiên cuối tuần do nhu cầu giảm và dự đoán Trung Quốc sẽ không đưa ra các biện pháp kích thích mạnh mẽ trong năm 2024.
Tại cuộc họp kinh tế thường niên trong tuần qua, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhất trí duy trì mục tiêu mức thâm hụt ngân sách 3% tổng sản phẩm quốc nội vào năm 2024, thấp hơn so với mục tiêu sửa đổi 3,8% trong năm nay.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa phiên thứ Sáu giảm 1,37% xuống 935 CNY (131,51 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 7/12. Tại Singapore quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 ở mức 134 USD/tấn, gần như không thay đổi so với phiên trước đó.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép giảm, thép thanh giảm 0,97%, thép cuộn cán nóng giảm 0,84%.
Tuy nhiên, nhu cầu quặng sắt tiếp tục giảm cũng gây áp lực lên giá thành phần sản xuất thép quan trọng này. Sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 11 giảm 3,8% so với tháng trước, tiếp tục giảm tháng thứ 5 liên tiếp.
Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy sản lượng kim loại trung bình hàng ngày của các nhà máy thép được khảo sát đã giảm tuần thứ 7 liên tiếp, giảm 1,1% trong trong tuần xuống còn 2,27 triệu tấn tính đến ngày 15/12.
Nông sản: Giá cà phê, cao su tăng, đường, ngô và lúa mì giảm
Giá ngô trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa phiên thứ Sáu tăng nhẹ bởi việc mua vào kỹ thuật và sự hỗ trợ từ thị trường lúa mì cũng tăng. Ngô CBOT kỳ hạn tháng 3/2024 đóng cửa tăng 3-3/4 US cent lên 4,83 USD/bushel; lúa mì CBOT kỳ hạn tháng 3/2024 tăng 13-1/2 US cent lên 6,29-1/4 USD/bushel.
Tính chung cả tuần, giá ngô giảm 0,5% trong khi lúa mì giảm 0,4%.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 đóng cửa phiên thứ Sáu giảm 0,19 US cent hay 0,9% xuống 21,99 US cent/lb sau khi giảm xuống mức thấp nhất 8,5 tháng, là 21,16 US cent. Hợp đồng này giảm 5,8% trong tuần do chịu áp lực từ sản lượng tại Brazil lớn hơn dự kiến. Đường trắng kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 3,8 USD hay 0,6% xuống 626,8 USD/tấn.
Ấn Độ, nước sản xuất đường lớn thứ 2 thế giới có thể sản xuất 32,5 triệu tấn trong năm thị trường 2023/24 bắt đầu từ 1/10. Chính phủ nước này sẽ cho phép một phần ethanol từ nước mía, thay đổi quan điểm trước đây.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2024 đóng cửa phiên thứ Sáu tăng 28 USD hay 1% lên 2.825 USD/tấn, trong phiên có lúc giá đạt 2.860 USD/tấn, cao nhất kể từ khi những hợp đồng tương lai này bắt đầu giao dịch vào tháng 1/2008. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 1,3 US cent hay 0,7% xuống 1,893 USD/lb sau khi lên mức cao nhất 7 tháng là 1,9450 USD/lb; tính chung cả tuần giá tăng 6,8% trong tuần này.
Hợp tác xã cà phê robusta của Brazil cho biết vụ mùa tới sản lượng có thể giảm ít nhất 15% bởi thời tiết nóng và khô. Các đại lý cho biết người trồng mía ở Brazil, nước xuất khẩu robusta lớn thứ 3 thế giới tiếp tục găm hàng trong bối cảnh dự đoán giá tăng bởi lo lắng về tình trạng khô hạn ở các khu vực sản xuất robusta.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng do dự đoán lãi suất của Mỹ giảm trong năm tới thúc đẩy hy vọng tăng trưởng kinh tế và nhu cầu nguyên liệu tăng.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa phiên thứ Sáu tăng 1,9 JPY hay 0,8% lên 238,1 JPY (1,7 USD)/kg, phục hồi từ mức thấp nhất 2 tháng trong phiên liền trước. Tính chugn cả tuần, giá tăng 0,3%, tuần tăng đầu tiên trong vòng 4 tuần. Tại Thượng Hải cao su giao tháng 5/2024 tăng 90 CNY lên 13.520 CNY (1.903 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên sàn SICOM của Singapore tăng 0,6% lên 144,8 US cent/kg.
Toshitaka Tazawa, nhà phân tích tại Fujitomi Securities, cho biết: “Triển vọng ngày càng tăng về việc Mỹ cắt giảm lãi suất đã cải thiện tâm lý thị trường, đặc biệt khi giá hàng hóa khác tăng”.
Dự trữ cao su tại các kho do Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải theo dõi đã tăng 6,3% so với thứ Sáu tuần trước.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá 8/12
|
Giá 15/12
|
15/12 so với 14/12
|
15/12 so với 14/12 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
71,23
|
71,43
|
-0,15
|
-0,21%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
75,84
|
76,55
|
-0,06
|
-0,08%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
69.800,00
|
69.370,00
|
+250,00
|
+0,36%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,58
|
2,49
|
+0,10
|
+4,14%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
204,98
|
213,70
|
+1,82
|
+0,86%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
258,10
|
262,08
|
+2,95
|
+1,14%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
774,00
|
763,75
|
+11,75
|
+1,56%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
81.500,00
|
81.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
2.014,50
|
2.035,70
|
-9,20
|
-0,45%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
9.337,00
|
9.230,00
|
-55,00
|
-0,59%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,28
|
24,15
|
-0,23
|
-0,95%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
110,10
|
110,50
|
-0,60
|
-0,54%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
920,65
|
944,51
|
-16,89
|
-1,76%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
946,74
|
1.177,06
|
+65,86
|
+5,93%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
383,05
|
389,05
|
-0,20
|
-0,05%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.448,50
|
8.549,00
|
-2,50
|
-0,03%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.134,00
|
2.247,50
|
+37,50
|
+1,70%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.399,50
|
2.532,00
|
+39,00
|
+1,56%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
24.567,00
|
25.175,00
|
-192,00
|
-0,76%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
485,50
|
483,00
|
+3,75
|
+0,78%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
631,75
|
629,25
|
+13,50
|
+2,19%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
355,50
|
375,50
|
+4,75
|
+1,28%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,04
|
17,12
|
+0,02
|
+0,09%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.304,00
|
1.331,50
|
-0,50
|
-0,04%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
404,70
|
396,60
|
+0,80
|
+0,20%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
50,17
|
50,15
|
+0,44
|
+0,89%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
667,00
|
658,90
|
-5,00
|
-0,75%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
4.271,00
|
4.244,00
|
-23,00
|
-0,54%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
177,15
|
189,30
|
-1,30
|
-0,68%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
23,36
|
21,99
|
-0,19
|
-0,86%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
371,35
|
364,45
|
-2,05
|
-0,56%
|
Bông
|
US cent/lb
|
81,44
|
79,93
|
-0,88
|
-1,09%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
144,90
|
144,60
|
+0,50
|
+0,35%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|