Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh lên mức cao nhất trong vòng hơn 7 năm do căng thẳng xung quanh vấn đề Ukraina.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 2,04 USD, hay 2,2%, lên 96,48 USD/thùng, sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ tháng 9/2014 là 96,78 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 2,36 USD, hay 2,5%, lên 95,46 USD/thùng, sau khi đạt 95,82 USD/thùng, cao nhất kể từ tháng 9/2014.
Trong khi đó, ông John Kilduff, chuyên gia của công ty tư vấn đầu tư Again Capital tại New York, cho biết thị trường vẫn rất nhạy cảm với những diễn biến trong tình hình Nga-Ukraine.
Thị trường dầu đã hạ nhiệt một thời gian ngắn sau khi Đại sứ Ukraina Vadym Prystaiko cho biết Ukraina sẵn sàng nhượng bộ Nga. Tuy nhiên giá đã phục hồi ngay sau đó. Những bình luận từ Mỹ về rủi ro Nga tấn công Ukraina làm chao đảo thị trường tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, Nga đã bác thông tin đó.
Nga là một trong những nhà sản xuất dầu thô lớn nhất thế giới, có công suất khoảng 11,2 triệu thùng/ngày. Các nhà phân tích cho rằng bất kỳ gián đoạn sản xuất nào ở Nga sẽ khiến giá dầu Brent và WTI tăng vọt lên mức cao trên 100 USD/thùng trong bối cảnh các nhà cung cấp đang chật vật không đáp ứng đủ nhu cầu đang gia tăng khi các nền kinh tế phục hồi sau đại dịch.
Ong Nishant Bhushan, chuyên gia phân tích thị trường dầu cấp cao của công ty kinh doanh và nghiên cứu năng lượng Rystad Energy (Na Uy), dự đoán bất kỳ sự gián đoạn nào trong nguồn cung dầu từ khu vực này cũng sẽ đẩy giá dầu Brent và WTI vượt xa mức 100 USD/thùng, khi mà thị trường vốn đang phải nỗ lực đáp ứng nhu cầu dầu thô tăng mạnh khi các nền kinh tế phục hồi từ đại dịch.
OPEC+ khó khăn để thực hiện cam kết tăng sản lượng hàng tháng 400.000 thùng/ngày cho tới tháng 3. Giám đốc cơ quan năng lượng quốc tế IEA kêu gọi OPEC+ thu hẹp khoảng cách giữa lời nói và hành động.
Giới đầu tư cũng đang dõi theo các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Iran. Bộ trường ngoại giao Iran cho biết nước này muốn nhanh chóng đạt được một thỏa thuận tại các cuộc đàm phán hạt nhân ở Vienna, miễn là các lợi ích quốc gia được bảo vệ.
Ông Pratibha Thaker, tổng biên tập của Economist Intelligence Unit khu vực Trung Đông và châu Phi, cho rằng một thỏa thuận hạt nhân giữa Mỹ và Iran có thể giải phóng thêm 1,3 triệu thùng dầu, nhưng con số này không đủ để xoa dịu tình hình căng thẳng nguồn cung hiện nay.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất 3 tháng do lo sợ về xung đột Nga – Ukraina thúc đẩy nhu cầu trú ẩn an toàn.
Vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.866,90 USD/ounce, sau khi đạt cao nhất kể từ ngày 16/11/2021 trước đó trong phiên này; vàng giao sau tăng 1,5% lên 1.869,4 USD/ounce.
Chỉ số chứng khoán Mỹ tiếp tục giảm do lo lắng về lãi suất tăng và sau khi Mỹ cảnh báo Nga có thể tạo cớ bất ngờ cho cuộc tấn công vào Ukraina.
Hiện nay các thị trường đợi số liệu giá sản xuất trong tháng 1 và biên bản cuộc họp chính sách tiền tệ trong tháng 1 của ngân hàng trung ương Mỹ vào cuối tuần này.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên này tăng 47,9 US cent, hay 2,05%, chốt phiên ở mức 23,848 USD/ounce; bạch kim tăng 9,3 USD, hay 0,91%, lên 1.028 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm và nickel tăng lên mức cao nhất trong vòng nhiều năm do lo sợ nguồn cung giảm từ Nga sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt cả hai kim loại này.
Thị trường lo ngại nếu xảy ra một cuộc tấn công của Nga vào Ukraina sẽ đồng nghĩa với các lệnh trừng phạt mà phương Tây áp dụng đối với các công ty của Nga như Norilsk Nickel, nơi cung cấp khoảng 10% sản lượng nicken thế giới và công ty Rusal nơi chiếm khoảng 5% nguồn cung nhôm toàn cầu. Nga đã nhiều lần phủ nhận họ đang chuẩn bị tấn công Ukraina.
Theo đó, giá nhôm trên sàn giao dịch kim loại London (LME) kết thúc phiên tăng 2,4% lên 3.212 USD/tấn. Tuần trước, giá nhôm đã đạt 3.333 USD/tấn, gần mức cao nhất 3.380,15 USD/tấn đạt được trong tháng 7/2008. Lượng nhôm lưu kho trên sàn LME ở mức 868.950 tấn đã giảm hơn một nửa kể từ tháng 3/2021.
Giá nickel phiên này tăng 0,6% lên 23.190 USD/tấn, giảm bớt sự gia tăng ban đầu. Hồi tháng 1 giá nickel đã chạm 24.435 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 8/2011. Lượng nickel lưu kho trên sàn London ở mức 84.894 tấn, giảm 67% kể từ tháng 4 năm ngoái.
Lo ngại về nguồn cung cấp trên sàn LME khiến giá nhôm và nicken giao ngay cao hơn so với các hợp đồng giao sau 3 tháng trong một thời gian.
Giá quặng sắt Trung Quốc giảm sau khi tăng hồi tuần trước lên mức cao nhất trong hơn 5 tháng, khi các nhà giao dịch lo lắng về cảnh báo của cơ quan quản lý về những biến động giá bất thường gần đây. Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc cũng thông báo tăng phí giao dịch đối với các hợp đồng kỳ hạn giao từ tháng 2 đến tháng 5 trong một động thái nhằm hạ nhiệt đà tăng.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch Đại Liên đóng của giảm 6,8% xuống 776,5 CNY (122,07 USD)/tấn, sau khi giảm khoảng 8,6% xuống 761,5 CNY, thấp nhất kể từ ngày 17/1.
Tại Singapore hợp đồng kỳ hạn tháng 3 giảm 1,2% xuống 148 USD/tấn. Giá quặng sắt giao ngay tại Trung Quốc tăng hơn 20% trong năm nay, đang giao dịch trên 150 USD/tấn.
Giá thép thanh tại Thượng Hải giảm 3,4%, thép cuộn cán nóng giảm 3,5%. Thép không gỉ tăng 2,5%.
Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia Trung Quốc (NDRC) cho biết các đoàn sẽ được cử đến sàn giao dịch hàng hàng hóa và các cảng lớn để xem xét tồn kho quặng sắt và giao dịch trên các thị trường giao ngay cũng như kỳ hạn.
Giá quặng sắt tại Đại Liên tăng vọt 18% trong tháng trước sau dự đoán của các nhà phân tích và kinh doanh rằng nhu cầu của Trung Quốc sẽ phục hồi khi việc hạn chế sản xuất thép được dỡ bỏ cũng như được hỗ trợ bởi các biện pháp kích thích kinh tế.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ tăng sau khi giảm trong phần lớn phiên này, do xuất khẩu của Mỹ mạnh và tiếp tục lo ngại về xung đột giữa Nga và Ukraina sẽ cản trở xuất khẩu qua biển Đen. Theo đó, giá ngô CBOT kỳ hạn tháng 3 đóng cửa tăng 4-3/4 US cent lên 6,55-3/4 USD/bushel. Các nhà xuất khẩu Mỹ đã sẵn sàng xuất khẩu 1,46 triệu tấn ngô trong tuần kết thúc vào ngày 10/2, tăng 36,6% so với tuần trước đó và cao hơn dự đoán của giới phân tích.
Giá đậu tương phiên này giảm bởi mưa gần đây ở Brazil và Argentina có thể hỗ trợ cho cây trồng trong khu vực này, mặc dù tình trạng khô hạn vẫn tiếp diễn đã hạn chế đà giảm giá. Theo đó, đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 3 giảm 13 US cent xuống 15,7 USD/bushel.
Lúa mì tăng sau khi giảm trong đầu phiên giao dịch do xung đột giữa Nga và Ukraina và ảnh hưởng của nó tới xuất khẩu qua Biển Đen. Lúa mì kỳ hạn tháng 3 đỏ mềm vụ đông đóng cửa tăng 1-1/2 US cent lên 7,99-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 đóng cửa giảm 0,14 US cent hay 0,8% xuống 18,12 US cent/lb do triển vọng mùa màng cải thiện tại Ấn Độ và Thái Lan; đường trắng kỳ hạn tháng 5 giảm 7,2 USD hay 1,5% xuống 482,2 USD/tấn.
Các đại lý cho biết các nhà đầu cơ tiếp tục giảm vị thế mua đường cũng do triển vọng mùa vụ tốt hơn ở Brazil.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 chốt phiên giảm 4,15 US cent hay 1,6% xuống 2,479 USD/lb, giảm từ mức đỉnh 10 năm tại 2,6045 USD/lb thiết lập vào tuần trước; cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 giảm 27 USD hay 1,2% xuống 2.243 USD/tấn.
Tuy nhiên, các đại lý cho biết thị trường này vẫn khan hiếm bất chấp tình trạng vận chuyển được cải thiện một phần. Thời tiết vẫn tích cực cho sự phát triển mùa màng của Brazil.
Giá cao su Nhật Bản tăng lên mức cao nhất trong 8,5 tháng, tăng 6 tháng liên tiếp do giá dầu mạnh lên, trong khi mưa rào tại Thái Lan làm tăng lo ngại về nguồn cung thắt chặt hơn.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 3,8 JPY hay 1,5% lên 257,6 JPY (2,2 USD)/kg, chạm mức cao nhất kể từ ngày 28/5/2021 trong đầu phiên này. Hợp đồng cao su tại Thượng Hải kỳ hạn tháng 5 giảm 40 CNY xuống 14.615 CNY (2.297,96 USD)/tấn.
Các nhà sản xuất găng tay cao su có thể đang dự trữ nguyên liệu thô hiện nay do họ dự đoán sản lượng giảm từ Thái Lan trong những tháng tới, khi nhiều nơi của nước này đang bước vào mùa đông. Cao su tổng hợp bắt nguồn từ dầu thô và thị trường dầu mỏ tăng cũng là động lực cho giá cao su tự nhiên.
Giá hàng hóa thế giới 

 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

94,91

-0,55

-0,58%

Dầu Brent

USD/thùng

95,98

-0,50

-0,52%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

57.100,00

+70,00

+0,12%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,18

-0,01

-0,33%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

276,83

-1,11

-0,40%

Dầu đốt

US cent/gallon

294,80

-1,38

-0,47%

Dầu khí

USD/tấn

848,25

+8,50

+1,01%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

79.750,00

+50,00

+0,06%

Vàng New York

USD/ounce

1.873,00

+3,60

+0,19%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.929,00

+63,00

+0,92%

Bạc New York

USD/ounce

23,90

+0,05

+0,20%

Bạc TOCOM

JPY/g

88,40

+1,00

+1,14%

Bạch kim

USD/ounce

1.033,48

+2,73

+0,26%

Palađi

USD/ounce

2.365,40

-2,45

-0,10%

Đồng New York

US cent/lb

449,10

-1,70

-0,38%

Đồng LME

USD/tấn

9.920,00

+59,50

+0,60%

Nhôm LME

USD/tấn

3.214,50

+78,00

+2,49%

Kẽm LME

USD/tấn

3.574,50

-52,00

-1,43%

Thiếc LME

USD/tấn

43.267,00

-282,00

-0,65%

Ngô

US cent/bushel

653,75

-1,50

-0,23%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

801,75

-3,75

-0,47%

Lúa mạch

US cent/bushel

740,25

-5,25

-0,70%

Gạo thô

USD/cwt

14,99

-0,06

-0,40%

Đậu tương

US cent/bushel

1.577,00

+3,00

+0,19%

Khô đậu tương

USD/tấn

447,70

+0,90

+0,20%

Dầu đậu tương

US cent/lb

65,58

-0,27

-0,41%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

990,00

-4,70

-0,47%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.731,00

-80,00

-2,85%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

247,90

-4,15

-1,65%

Đường thô

US cent/lb

17,66

-0,15

-0,84%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

135,30

-2,15

-1,56%

Bông

US cent/lb

120,61

-2,30

-1,87%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

1.246,00

+30,00

+2,47%

Cao su TOCOM

JPY/kg

177,10

-4,10

-2,26%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)