Trên thị trường năng lượng, giá dầu hồi phục khỏi mức thấp nhất 6 tuần trong bối cảnh các nhà đầu tư chưa chắc chắn về việc các nền kinh tế lớn sẽ "giải phóng" bao nhiêu dầu từ kho dự trữ chiến lược và điều đó sẽ giúp bớt áp lực về nhu cầu ra sao.
Kết thúc phiên này, dầu thô Brent tăng 96 US cent, tương đương 1,2%, lên 81,24 USD/thùng, trong phiên có lúc chạm 79,28 USD/thùng – thấp nhất kể từ ngày 7/10/2021, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 65 US cent, tương đương 0,8%, lên 79,01 USD/thùng, trong phiên có lúc chạm mức thấp nhất kể từ đầu tháng 10/2021 (77,08 USD/thùng).
Đầu phiên cùng ngày, giá dầu đã giảm mạnh khi Trung Quốc cho biết sẽ chuyển sang khai thác kho dự trữ dầu chiến lược. Chính phủ Mỹ đang kêu gọi các quốc gia tiêu thụ dầu lớn, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc xem xét "giải phóng" kho dự trữ chiến lược để kiểm soát giá năng lượng. Giới quan sát cho hay việc "giải phóng" kho dự trữ chiến lược, ngay cả khi chỉ từ Mỹ và Trung Quốc, có thể sẽ khiến giá giảm ít nhất là trong tạm thời.
Một quan chức Bộ Công nghiệp Nhật Bản cho biết theo luật, nước này không thể "giải phóng" dự trữ dầu thô để hạ giá năng lượng. Một quan chức Hàn Quốc cũng cho biết nước này đang xem xét yêu cầu từ phía Chính phủ Mỹ, song nói thêm rằng họ chỉ có thể làm như vậy trong trường hợp mất cân bằng nguồn cung. Thái độ của Nhật Bản và Hàn Quốc khiến cho nhà đầu tư khó đoán thị trường dầu sẽ diễn biến như thế nào.
Giá dầu đã tăng mạnh trong thời gian qua do nhu cầu tăng vọt nhưng Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nhà sản xuất lớn ngoài khối (nhóm OPEC+) quyết định chỉ tăng sản lượng một cách từ từ. Song việc các nước lớn giải phóng kho dự trữ dầu là một thách thức chưa từng có đối với OPEC, vì nó liên quan đến nhà nhập khẩu hàng đầu là Trung Quốc.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau dữ liệu khả quan về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần của Mỹ củng cố những dự đoán về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ nâng lãi suất sớm hơn dự kiến.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.858,76 USD/ounce, vàng kỳ hạn tháng 12/2021 giảm 0,5% xuống 1.861,4 USD/ounce. Tuy nhiên, giá vàng vẫn dao động gần mức cao nhất 5 tháng đạt được trong ngày 16/11/2021.
Theo số liệu được công bố ngày 18/11, số đơn xin hưởng trợ cấp thất nghiệp lần đầu của Mỹ đã giảm xuống gần mức trước đại dịch trong tuần trước. Bất cứ dấu hiệu nào cho thấy nền kinh tế đang phục hồi cũng sẽ làm giảm nhu cầu đối với tài sản trú ẩn an toàn như vàng. Bên cạnh đó, lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ đang ở gần mức cao nhất trong ba tuần qua, trong khi đồng USD đang “án binh” sau khi giảm từ mức cao nhất trong 16 tháng.
Vốn được xem là biện pháp phòng trừ rủi ro lạm phát, giá vàng đang đi lên trước số liệu lạm phát tăng mạnh ở Mỹ và châu Âu. Song điều đó cũng làm gia tăng khả năng xảy ra một đợt nâng lãi suất sớm, làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản không sinh lãi như vàng.
Chuyên gia phân tích cấp cao của công ty môi giới ActivTrades, Ricardo Evangelista, cho biết hiện giờ rất khó để tìm đường hướng của giá vàng vì những bất ổn liên quan đến diễn biến của đồng USD và phản ứng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khác với lạm phát.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giảm 0,8% xuống 1.048,77 USD/ounce, trong khi giá bạc giảm 0,9% và được giao dịch ở mức 24,82 USD/ounce, còn palladium giảm 2,7% xuống 2.129,28 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng hồi phục từ mức thấp nhất 1 tháng do dữ liệu lạc quan của nền kinh tế Mỹ.
Theo đó, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,9% lên 9.488,5 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 9.315 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 11/10/2021. Lượng đồng lưu kho của sàn London đã giảm hơn 1/2 kể từ đầu tháng 10/2021 xuống 97.600 tấn.
Đối với nhôm, mức chênh lệch giá giữa kỳ hạn 1 tháng với kỳ hạn 3 tháng tăng lên 10,73 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 31/8, cho thấy nguồn cung gần hạn đang bị thắt chặt. Giá nhôm giao sau 3 tháng kết thúc phiên này tăng 0,1% lên 2,619 USD/tấn.Nhập khẩu nhôm của Trung Quốc trong tháng 10 đã tăng 17,4% so với tháng trước lên mức cao nhất kể từ tháng 7.
Về các kim loại cơ bản khác, giá thiếc trên sàn LME có lúc đạt mức 40.000 đô la trước khi hạ nhẹ vào lúc đóng cửa, về 38.500 đô la,v vẫn tăng 1,4% so với phiên liền trước. Giá nickel phiên này tăng 1,6% lên 19,655 USD, nhưng kẽm giảm 0,5% xuống 3,177,50 USD trong khi chì giảm 1,3% xuống 2.224,50 USD.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 năm do triển vọng nhu cầu đối với sản phẩm thép và nguyên liệu tại nước sản xuất thép lớn nhất thế giới suy giảm. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn Đại Liên giảm 5,1% xuống 511,5 CNY (80,21 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch chạm 510,5 CNY/tấn – thấp nhất kể từ ngày 4/11/2020; quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2021 trên sàn Singapore giảm 3,2% xuống 85,95 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ giảm, với lúa mì đỏ cứng vụ đông và lúa mì vụ xuân giảm từ mức cao kỷ lục nhiều năm do hoạt động bán chốt lời.
Tại Sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm vụ đông kỳ hạn tháng 12/2021 giảm 2-1/2 US cent xuống 8,2 USD/bushel; lúa mì đỏ cứng vụ đông giảm 5-1/2 US cent xuống 8,28-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 8,48-3/4 USD/bushel – cao nhất kể từ tháng 5/2014.
Mặc dù giá đã giảm khỏi mức cao kỷ lục nhưng sự kết hợp của nguồn cung khan hiếm và các giao dịch đã đặt trước đó vẫn tiếp tục củng cố thị trường lúa mì.
Về phía nguồn cung, mưa lớn đang đe dọa thiệt hại đến vụ thu hoạch muộn của Australia, trong khi lũ lụt đã làm gián đoạn các tuyến đường xuất khẩu ở Canada trong khi điều kiện khô hạn đang làm dấy lên những nghi ngờ ban đầu về sản xuất ở Hoa Kỳ và khu vực Biển Đen. Một thương nhân châu Âu cho biết: “Hiện nhu cầu lúa mì rất cao, trong bối cảnh sản lượng đang gặp nhiều vấn đề”.
Hoạt động bán chốt lời cũng gây áp lực giảm giá ngô và đậu tương, theo đó giá ngô kỳ hạn tháng 12/2021 giảm 2-1/4 US cent xuống 5,73 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 1/2022 giảm 11-3/4 US cent xuống 12,65-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn ICE kết thúc phiên vừa qua giảm 1,1% xuống 20,18 US cent/lb, sau khi đạt mức cao 20,69 US cent/lb – cao nhất kể từ tháng 2/2017; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn London giảm 1,5% xuống 516,6 USD/tấn.
Ở Châu Á, giao dịch cà phê tại Việt Nam không sôi động. Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức trừ lùi 280-300 USD/tấn so với hợp đồng tham chiếu tại London, nới rộng khoảng cách so với mức trừ lùi 250-260 USD/tấn tuần trước đó. Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức trừ lùi 250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2022, so với mức trừ lùi 170-180 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm hơn 1%, theo xu hướng giá cao su trên sàn Thượng Hải giảm, trong bối cảnh lo ngại thảm họa thị trường bất động sản Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế. Theo đó, cao su kỳ hạn tháng 4/2022 trên sàn Osaka giảm 4 JPY tương đương 1,7% xuống 225,4 JPY/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn Thượng Hải giảm 1,5% xuống 13.390 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Nguồn: Vinanet / VITIC / Reuters, Bloomberg