Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng Brent tăng vượt 114 USD/thùng do tình trạng mất điện tại Libya làm gia tăng lo ngại về nguồn cung trên toàn cẩu bị thắt chặt trong bối cảnh khủng hoảng Ukraine vẫn tiếp diễn.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent tăng 1,46 USD hay 1,3% lên 113,16 USD/thùng, trong phiên có lúc giá đạt 114,84 USD/thùng, cao nhất kể từ ngày 28/3; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giá tăng 1,26 USD hay 1,2% lên 108,21 USD/thùng, trong phiên có lúc đạt 109,81 USD/thùng, cũng cao nhất kể từ ngày 28/3.
Thiếu hụt nguồn cung gia tăng sau khi có tin sản lượng dầu của Nga đã giảm 7,5% trong nửa đầu tháng 4 so với cùng kỳ tháng 3, và nước EU tuần trước cho biết khối này đang soạn thảo các kế hoạch đề xuất cấm dầu thô của Nga.
Trong khi đó, Tập đoàn Dầu khi Quốc gia Libya cho biết một làn sóng đóng cửa bắt đầu ảnh hưởng tới các cơ sở của họ và tuyên bố tình trạng bất khả kháng tại mỏ dầu Al-Sharara và các địa điểm khác.
Tuy nhiên, kinh tế Trung Quốc tăng chậm lại trong tháng 3 do dịch Covid-19 làm hạn chế nhu cầu dầu mỏ. Số liệu cho thấy khối lượng dầu lọc của Trung Quốc trong tháng 3 giảm 2% so với cùng kỳ năm trước, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 10/2021 do giá dầu thô tăng vọt làm giảm lợi nhuận và việc phong tỏa làm giảm nhu cầu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao nhất trong vòng một tháng, tiến sát mức 2.000 USD/ounce do lo ngại về xung đột Nga – Ukraine và áp lực lạm phát gia tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.976,56 USD/ounce, sau khi có lúc tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 11/3 tại 1.998,1 USD/ouncel; vàng giao sau tăng 0,6% lên 1.986,4 USD/ounce.
Đà tăng giá của vàng đã bị hạn chế vào cuối phiên giao dịch do lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng vọt và đồng USD tiếp tục mạnh lên, qua đólàm giảm sức hấp dẫn của vàng đối với những người mua đang nắm giữ các đồng tiền khác.
Giám đốc mảng giao dịch kim loại thuộc tổ chức tài chính High Ridge Futures (Mỹ), David Meger, cho biết: “Sự gia tăng căng thẳng trong xung đột Nga-Ukraine với áp lực lạm phát trên diện rộng đã thúc đẩy nhu cầu trú ẩn an toàn đối với vàng”. Theo ông, lo ngại về tác động kinh tế từ các hạn chế liên quan tới đại dịch COVID-19 ở Trung Quốc cũng hỗ trợ giá kim loại quý này.
Mặc dù lo ngại về lạm phát tăng cao thúc đẩy sức hút của vàng, vốn được coi như một “hàng rào” chống lạm phát, song việc tăng lãi suất để kiềm chế giá cao hơn có thể ảnh hưởng đến nhu cầu đối với mặt hàng này vì nó khiến chi phí cơ hội cao hơn khi nắm giữ vàng vốn không sinh lời.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến sẽ đẩy nhanh tốc độ thắt chặt chính sách tiền tệ khi cuộc họp tiếp theo diễn ra, với mức tăng lãi suất 50 điểm cơ bản dự kiến trong các cuộc họp tháng Năm và tháng Sáu.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay kết thúc phiên tăng 0,5% lên 25,80 USD/ounce, trong phiên có lúc đạt mức cao nhất trong hơn một tháng là 26,21 USD/ounce; bạch kim tăng 2,2% lên 1.011,89 USD/ounce, cao nhất kể từ ngày 25/3, trong khi palladium tăng 2,2% lên 2.419,30 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, sàn London đóng cửa nghỉ giao dịch phiên 18/4 nhân lễ Phục Sinh.
Tại sàn Thượng Hải, giá đồng và nickel tăng phiên thứ 4 liên tiếp do tồn kho thấp và hy vọng Chính phủ Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, gia tăng kích thích kinh tế.
Theo đó, giá đồng kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (ShFE) kết thúc phiên đóng cửa tăng 0,3% lên 74.760 CNY (11.738,84 USD)/tấn, sau khi có lúc tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 8/3, là 75.320 CNY (11.826,78 USD). Giá nickel cũng tăng 1,8% lên 225.280 CNY (35.373,55 USD) sau khi tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 28/3 lúc đầu phiên.
Tồn kho đồng trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 8,2% so với một tuần trước, tồn kho nickel giảm 12%. Tuần trước, tập đoàn Barrick Gold cho biết sản lượng đồng của họ trong quý 1 giảm 19,8% so với quý trước đó bởi sản lượng giảm ở mỏ Lumwana của họ.
GDP của Trung Quốc trong quý 1 tăng 4,8% so với một năm trước, nhưng nền kinh tế này chậm lại trong tháng 3 do tiêu dùng, bất động sản và xuất khẩu bị ảnh hưởng nặng nề.
Giá quặng sắt phiên này cũng tăng, với quặng kỳ hạn tháng 9 trên sàn Đại Liên tăng 0,9% lên 922 CNY (144,69 USD)/tấn. Trên sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5 tăng khoảng 2,6% lên 158,4 USD/tấn.
Cuối ngày 15/4, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cho biết họ sẽ cắt giảm lượng dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng lần đầu tiên trong năm nay, giải phóng khoảng 530 tỷ CNY cho thanh khoản.
Hoạt động kinh tế tại Trung Quốc, nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới, đã chậm lại trong tháng 3, với các lĩnh vực tiêu dùng, bất động sản và xuất khẩu giảm sút, làm lu mờ tốc độ tăng trưởng GDP trong quý 1 mạnh hơn dự kiến.
Những hạn chế do Covid-19 đã làm giảm sản lượng thép thô của Trung Quốc vốn đã bị giảm bởi những hạn chế về môi trường, sản lượng thép tháng 3 giảm hơn 6% so với cùng tháng năm trước.
Giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 0,5%, thép cuộn cán nóng ổn định, thép không gỉ giảm 1,8%.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ vượt 8 USD/bushel, đạt mức cao nhất trong gần 10 năm do lo ngại về khủng hoảng Nga – Ukraine làm gián đoạn xuất khẩu ngũ cốc ở Biển Đen và thời tiết lạnh làm trì trệ việc gieo trồng ở Mỹ. Đậu tương và lúa mì đóng cửa tăng.
Theo đó, gía ngô kỳ hạn tháng 7 đóng cửa tăng 23-1/4 US cent lên 8,07 USD/bushel. Hợp đồng này đã chạm 8,1 USD/bushel, giá cao nhất kể từ tháng 9/2012; ngô vụ mới, kỳ hạn tháng 12, tăng 14-1/2 US cent lên 7,49-3/4 USD/bushel, và trong phiên giá cao nhất tại 7,5 USD.
Lúa mì tăng giá trong bối cảnh lo ngại thời tiết khô hạn tại các khu vực trồng trọt ở đồng bằng miền Nam.
Giá lúa mì đỏ mềm vụ đông giao tháng 7 đóng cửa tăng 24-1/4 US cent lên 11,28-3/4 USD/bushel. Hợp đồng này đã đạt giá cao nhất kể từ ngày 22/3. Trong khi đó, giá đậu tương tăng trong khi dầu đậu tương ở mức cao do dấu hiệu nhu cầu mạnh. Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 7 đóng cửa tăng 28 US cent lên 16,93-1/4 USD/bushel. Giá dầu đậu tương cũng tăng 1,2 US cent lên 78,09 US cent/lb, sau khi tăng vọt lên 78,5 US cent.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm theo xu hướng của nguyên liệu thô và chỉ số Nikkei giảm.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 3,5 JPY hay 1,3% xuống 262 JPY (2,07 USD)/kg, đánh dấu ngày giảm theo phần trăm lớn nhất kể từ ngày 7/4; hợp đồng kỳ hạn tháng 9 trên sàn Thượng Hải tăng 75 CNY lên 13.475 CNY (2.115,85 USD)/tấn.
Giá mủ cao su của Thái Lan chạm mức thấp nhất kể từ ngày 14/2 tại 50,8 baht (1,51 USD)/kg.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

108,83

+0,62

+0,57%

Dầu Brent

USD/thùng

114,00

+0,84

+0,74%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

81.350,00

+1.350,00

+1,69%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

7,82

+0,00

+0,01%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

338,40

+0,59

+0,17%

Dầu đốt

US cent/gallon

390,60

+1,52

+0,39%

Dầu khí

USD/tấn

1.156,50

-15,25

-1,30%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

79.680,00

-500,00

-0,62%

Vàng New York

USD/ounce

1.980,00

-6,40

-0,32%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.104,00

+29,00

+0,36%

Bạc New York

USD/ounce

26,08

-0,16

-0,59%

Bạc TOCOM

JPY/g

107,00

+1,30

+1,23%

Bạch kim

USD/ounce

1.022,54

+7,07

+0,70%

Palađi

USD/ounce

2.422,81

-18,07

-0,74%

Đồng New York

US cent/lb

481,45

-0,70

-0,15%

Đồng LME

USD/tấn

10.315,00

+16,00

+0,16%

Nhôm LME

USD/tấn

3.285,50

+49,50

+1,53%

Kẽm LME

USD/tấn

4.412,00

-49,50

-1,11%

Thiếc LME

USD/tấn

43.043,00

-281,00

-0,65%

Ngô

US cent/bushel

813,00

+6,00

+0,74%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

1.139,00

+10,25

+0,91%

Lúa mạch

US cent/bushel

746,75

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

16,64

+0,09

+0,54%

Đậu tương

US cent/bushel

1.700,50

+7,25

+0,43%

Khô đậu tương

USD/tấn

460,80

+0,50

+0,11%

Dầu đậu tương

US cent/lb

78,36

+0,27

+0,35%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

1.049,80

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.578,00

-58,00

-2,20%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

223,75

0,00

0,00%

Đường thô

US cent/lb

20,20

+0,17

+0,85%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

191,00

+9,95

+5,50%

Bông

US cent/lb

143,31

+0,06

+0,04%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

923,90

+34,90

+3,93%

Cao su TOCOM

JPY/kg

173,90

+0,30

+0,17%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)