Trên thị trường năng lượng, giá dầu WTI giảm sau kết quả khảo sát của hãng tin Reuters cho thấy dự trữ dầu thô hàng tuần của Mỹ tăng.
Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) giảm 14 US cent (0,2%) xuống 83,91 USD/thùng. Tuy nhiên, dầu Brent Biển Bắc tăng 1 US cent lên 84,72 USD/thùng.
Mặc dù giảm trong phiên này, song giá dầu Mỹ vẫn gần sát mức cao nhất 3 năm. Giá dầu Brent đã tăng hơn 60% trong năm 2021. Loại dầu này đã đạt mức cao nhất trong ba năm là 86,70 USD/thùng trong tuần trước khi nhu cầu thế giới phục hồi và OPEC+ đã chậm dỡ bỏ cắt giảm sản lượng.
Các nhà phân tích tham gia khảo sát của hãng tin Reuters dự báo báo cáo dự trữ trữ dầu thô hàng tuần của Mỹ sẽ cho thấy mức tăng 1,6 triệu thùng. Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ sẽ công bố báo cáo quan trọng này trong ngày 3/11.
Các nước tiêu thụ đã gây áp lực buộc OPEC+ phải hành động tích cực hơn nữa để "hạ nhiệt" thị trường. Tuy nhiên, tại cuộc họp ngày 4/11, tổ chức này dự kiến sẽ tuân thủ kế hoạch tăng dần sản lượng hàng tháng, với khoảng 400.000 thùng mỗi ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do đồng USD và chứng khoán tăng trước thềm cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) - được dự báo sẽ cung cấp thời gian biểu về việc tăng lãi suất giữa bối cảnh sức ép lạm phát ngày càng tăng.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.787,04 USD/ounce, trong khi vàng giao sau giảm 0,4% xuống 1.789,40 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD mạnh lên, khiến vàng trở nên đắt đỏ với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao của Kitco Metals, cho biết đà tăng của thị trường chứng khoán trước tiếp tục làm lu mờ sức hấp dẫn của vàng. Tuy nhiên, những lo ngại về tình hình lạm phát đã giúp ngăn giá vàng giảm mạnh.
Fed dự kiến sẽ thông qua kế hoạch giảm quy mô chương trình mua trái phiếu vào ngày 3/11, khi kết thúc cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày. Carsten Fritsch, một nhà phân tích hàng hóa thuộc ngân hàng Commerzbank, dự báo Fed sẽ thông báo bắt đầu cắt giảm quy mô chương trình mua trái phiếu, nhưng ngân hàng này dường như sẽ không đưa ra thời điểm cụ thể về việc tăng lãi suất.
Lukman Otunuga, nhà phân tích nghiên cứu cấp cao tại FXTM, cho hay tuần tới có thể sẽ là một tuần biến động đối với vàng. Kim loại quý này có thể bị ảnh hưởng bởi sự lên xuống của đồng USD, lợi suất trái phiếu chính phủ, những đồn đoán về lạm phát và tâm lý rủi ro trên toàn cầu.
Các thị trường cũng đang theo dõi sát sao cuộc họp chính sách của Ngân hàng trung ương Anh vào ngày 4/11.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 2,3% xuống mức thấp 2 tuần, là 23,46 USD/ounce; bạch kim giao ngay giảm 2,4% xuống 1.038,82 USD/ounce; giá palladium giảm 1,8% xuống 2.011,69 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm, do các nhà đầu tư thận trọng trước cuộc họp của Ngân hàng Trung ương Mỹ, song mối lo ngại về tình trạng thiếu hụt nguồn cung và tồn trữ chạm mức thấp kỷ lục đã hạn chế đà suy giảm. Giá đồng trên sàn London giảm 0,4% xuống 9.515 USD/tấn. Trong 2 tuần trước đó, giá đồng giảm tổng cộng 9%.
Về những kim loại cơ bản khác, giá 1,1% xuống 2.689 USD/tấn, giá kẽm giảm 0,7% xuống 3.340 USD/tấn, chì giảm 0,2% xuống 2.373 USD/tấn, thiếc giảm 0,1% xuống 36.915 USD/tấn, và nickel giảm 0,5% xuống 19.605 USD/tấn.
Giá sắt thép tại Trung Quốc cũng giảm, theo đó quặng sắt lần đầu tiên trong gần 1 năm giảm xuống dưới 600 CNY (93,75 USD)/tấn do điều kiện nguồn cung suy giảm và triển vọng nhu cầu yếu.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Đại Liên giảm 10% xuống 565,5 CNY/tấn – thấp nhất kể từ ngày 18/11/2020; quặng sắt 62% Fe giao ngay sang Trung Quốc giảm 9,5 USD xuống 107 USD/tấn, công ty tư vấn SteelHome cho biết.
Tồn trữ quặng sắt tại 45 cảng của Trung Quốc trong tuần này tăng lên 146,5 triệu tấn, tăng 4,05 triệu tấn so với tuần trước đó.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 8% xuống 4.230 CNY/tấn, giá thép cuộn cán nóng giảm 6,6% xuống 4.601 CNY/tấn và thép không gỉ giảm 1,2% xuống 18.680 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì tại Mỹ giảm sau khi tăng lên mức cao nhất gần 9 năm, do điều kiện cây trồng vụ đông của Mỹ giảm, dấy lên mối lo ngại nguồn cung toàn cầu tại thời điểm tồn trữ giảm và nhu cầu tăng mạnh.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì giảm 5-3/4 US cent xuống 7,91-1/2 USD/bushel, sau khi đạt mức cao nhất kể từ tháng 12/2012 (8,07 USD/bushel) trong đầu phiên giao dịch. Giá ngô giảm 6 US cent xuống 5,73 USD/bushel, trong khi giá đậu tương tăng 7-3/4 US cent lên 12,56-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn ICE tăng 0,8% lên 19,53 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2021 trên sàn London thay đổi nhẹ ở mức 511,1 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2021 trên sàn ICE giảm 1% xuống 2,066 USD/lb, do lo ngại về sản lượng vụ thu hoạch của Brazil trong niên vụ tới; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn London giảm 1,9% xuống 2.225 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 4,5 năm (2.278 USD/tấn) trong tuần trước đó.
Xuất khẩu cà phê của Costa Rica trong tháng 10/2021 giảm 29,6% so với cùng tháng năm ngoái, do chương trình cải tạo cây trồng khiến sản lượng giảm.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm gần 2%, sau khi biên bản của Ngân hàng trung ương cho thấy mối lo ngại về sự phục hồi kinh tế chậm chạp.
Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2022 trên sàn Osaka giảm 3,9 JPY tương đương 1,7% xuống 226,5 JPY/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn Thượng Hải giảm 2,8% xuống 14.390 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

82,39

-1,52

-1,81%

Dầu Brent

USD/thùng

83,50

-1,22

-1,44%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

51.250,00

+830,00

+1,65%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

5,52

-0,03

-0,49%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

241,31

-3,70

-1,51%

Dầu đốt

US cent/gallon

247,48

-3,34

-1,33%

Dầu khí

USD/tấn

717,00

-5,00

-0,69%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

73.840,00

-320,00

-0,43%

Vàng New York

USD/ounce

1.781,10

-8,30

-0,46%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.540,00

-5,00

-0,08%

Bạc New York

USD/ounce

23,45

-0,06

-0,24%

Bạc TOCOM

JPY/g

86,90

-0,80

-0,91%

Bạch kim

USD/ounce

1.037,59

-3,67

-0,35%

Palađi

USD/ounce

2.020,74

+6,68

+0,33%

Đồng New York

US cent/lb

436,55

-0,05

-0,01%

Đồng LME

USD/tấn

9.495,50

-59,50

-0,62%

Nhôm LME

USD/tấn

2.692,50

-27,00

-0,99%

Kẽm LME

USD/tấn

3.342,50

-15,00

-0,45%

Thiếc LME

USD/tấn

36.642,00

-328,00

-0,89%

Ngô

US cent/bushel

568,00

-5,00

-0,87%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

788,50

-3,00

-0,38%

Lúa mạch

US cent/bushel

741,25

-19,00

-2,50%

Gạo thô

USD/cwt

13,30

+0,02

+0,15%

Đậu tương

US cent/bushel

1.248,75

-7,50

-0,60%

Khô đậu tương

USD/tấn

336,00

-1,20

-0,36%

Dầu đậu tương

US cent/lb

61,64

-0,35

-0,56%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

990,80

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.507,00

-95,00

-3,65%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

208,05

-0,65

-0,31%

Đường thô

US cent/lb

19,54

+0,17

+0,88%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

119,20

-2,90

-2,38%

Bông

US cent/lb

113,18

-0,65

-0,57%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

616,70

+10,70

+1,77%

Cao su TOCOM

JPY/kg

171,50

+0,10

+0,06%

Ethanol CME

USD/gallon

2,21

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC/Reuters, Bloomberg