Trên thị trường năng lượng, giá dầu quay đầu giảm do dự báo thời tiết mùa đông năm nay ở M ỹ sẽ ấm áp.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 1,21 USD xuống 84,61 USD/thùng, trước đó, trong cùng phiên, có lúc giá dầu Brent tăng lên mức cao 86,10 USD/thùng và cũng là mức cao nhất kể từ tháng 10/2018. Giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kết thúc phiên giảm 92 US cent xuống 82,50 USD/thùng.
Cơ quan quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA) dự báo thời tiết mùa đông năm nay ở phần lớn nước Mỹ dự kiến sẽ ấm hơn mức trung bình.
Bob Yawger, Giám đốc phụ trách về triển vọng năng lượng của Mizuho, cho biết: “Báo cáo cho thấy điều kiện khô hơn và ấm hơn trên khắp miền nam và miền đông nước Mỹ đang gây áp lực lên giá năng lượng”.
Hoạt động bán chốt lời sau giai đoạn giá tăng mạnh cũng khiến giá dầu giảm. Bên cạnh đó, xu hướng đi xuống của giá than và khí tự nhiên cũng tác động lên thị trường dầu.
Giá dầu Brent đã tăng hơn 60% trong năm nay, được hỗ trợ bởi nguồn cung tăng chậm vì Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh được gọi chung là OPEC + chậm khôi phục sản lượng, và cuộc khủng hoảng than và khí đốt toàn cầu đã thúc đẩy các nhà máy phát điện chuyển đổi sang dầu.
Tại Trung Quốc, giá than giảm 11%, kéo dài mức giảm trong tuần này kể từ khi Bắc Kinh phát đi tín hiệu có thể can thiệp để hạ nhiệt thị trường.
Các chuyên gia nhận định triển vọng giá dầu vẫn khả quan trong phần còn lại của năm và chuyên gia Giovanni Staunovo của ngân hàng Thụy Sĩ UBS dự kiến giá dầu Brent sẽ giao dịch ở mức 90 USD/thùng trong tháng 12/2021 và tháng 3/2022.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cugnx giảm do lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ tăng đã lấn tác động tích cực lên vàng từ tâm lý lo ngại về lạm phát và lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc.
Cuối phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.780,61 USD/ounce; vàng giao tháng 12 giảm 0,2% xuống 1.781,9 USD/ounce.
Ông Phillip Streible, trưởng bộ phân chiến lược thị trường của công ty Blue Line Futures ở Chicago (Mỹ), cho biết Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sắp giảm chương trình mua tài sản và lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Mỹ được dự đoán sẽ chạm mức cao kỷ lục từ trước đến nay, vì thế các nhà đầu tư không có lý do gì để đầu tư tiền vào tài sản không sinh lãi như vàng.
Lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của Mỹ đã tăng lên mức cao nhất trong 5 tháng qua, khi đà phục hồi nhanh của nền kinh tế lại làm dấy lên những đồn đoán về thời điểm Fed sẽ nâng lãi suất.
Tuy nhiên, phiên này, giá vàng cũng được hỗ trợ phần nào khi chứng khoán Á-Âu giảm điểm sau khi Evergrande mới đây cho biết đã hủy bỏ thỏa thuận bán 50,1% cổ phần trong công ty con về dịch vụ bất động sản của mình. Bên cạnh đó, nhưng lo ngại về lạm phát cũng chi phối các thị trường chứng khoán.
Các chuyên gia phân tích của ngân hàng đầu tư đa quốc gia UBS (Thụy Sỹ) nhận định rằng dự đoán lạm phát tăng và kinh tế giảm tốc có thể là yếu tố hỗ trợ giá vàng trong một, hai tháng tới.
Hai quan chức của Fed hôm thứ Tư (21/10) cho biết rằng mặc dù ngân hàng trung ương nên bắt đầu giảm bớt các biện pháp kích thích, nhưng vẫn còn quá sớm để tăng lãi suất. Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,8% xuống 24,08 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,5% và được giao dịch ở mức 1.044,83 USD/ounce; palladium giảm 2,6% xuống 2.018,45 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng loạt đi xuống, trong đó giá đồng giảm hơn 3% do thị trường tập trung sự chú ý vào nguy cơ nhu cầu sẽ giảm sút ở Trung Quốc – nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới.
Kết thúc phiên này, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn LME giảm 3,3% xuống 9.852 USD/tấn, mức cộng giá hợp đồng giao ngay so với kỳ hạn 3 tháng giảm còn 211 USD/tấn. Mức cộng giá đồng giao ngay so với kỳ hạn 3 tháng đã tăng lên 1.103 hôm 18/10, cao nhất từ trước tới nay, do lượng dự trữ hiện tại trên sàn LME xuống mức thấp nhất trong vòng ít nhất 2 thaapjh kỷ.
Sự siết chặt đã đẩy giá đồng kỳ hạn tham chiếu tăng 10% vào tuần trước và lên mức 10.452,50 USD vào 18/10, chỉ thấp hơn chút ít so với mức cao kỷ lục.
Lượng đồng lưu trữ trong các kho của sàn London hiện ở mức 18.250 tấn, vẫn gần mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ.
Các kim loại cơ bản khác phiên này cũng giảm giá, trong đó nickel giảm 4,8% xuống 19.950 USD/tấn, từ mức 21.425 USD, cao nhất kể từ năm 2014; nhôm giảm 5,2% xuống 2.910,50 USD/tấn, kẽm giảm 4,4% xuống 3,406 USD, chì giảm 1,2% xuống 2,389,50 USD và thiếc giảm 3,4% xuống 36,910 USD.
Giá sắt thép phiên này cũng giảm do giá than giảm và tiêu thụ thép đình trệ. Giá quặng trên sàn Đại Liên giảm 8,7% xuống 651 CNY/tấn; thép cây trên sàn Thượng Hải giảm 8% xuống 4.976 CNY/phiên; thép cuộn cán nóng giảm 6,2% xuống 5.268 CNY/tấn.
Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy mức tiêu thụ 5 sản phẩm thép chính ở Trung Quốc, bao gồm thép cây và thép cuộn cán nóng, đã giảm 7,5% xuống 9,26 triệu tấn vào thứ Năm (21/10)so với một tuần trước đó.
Riêng thép không gỉ kỳ hạn tương lai tăng trong phiên này, kết thúc 3 phiên giảm trước đó, do giá nickel tưng vọt, mặc dù các nhà phân tích cảnh báo rằng tiêu thụ ở các lĩnh vực hạ nguồn của Trung Quốc vẫn chậm chạp.
Tuy nhiên, giá thép không vgir phiên này tăng do giá nickel ở Thượng Hải tăng cao. Giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 11 trên sàn Thượng Hải tăng 1,1% lên 20.470 CNY/tấn. Đầu phiên, có lúc giá tăng 5,1% lên 21.280 CNY. Giá nickel trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải phiên này tăng 8% lên mức kỷ lục 161.600 CNY (25.283,58 USD)/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương kỳ hạn tương lai trên sàn Chicago giảm trong phiên vừa qua do áp lực bán mang tính kỹ thuật và dự báo thời tiết ở nam mỹ khả quan.
Giá đậu tương kỳ hạn tham chiếu trên sàn Chicago giảm 21-1/4 cent xuống 12,24-1/4 USD/bushel. Dự báo Brazil – đối thủ cạnh tranh chính của Mỹ và là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới trên thị trường đậu tương - sẽ tiếp tục có mưa, giúp cho cây phát triển tốt.
Lúa mì phiên này cũng giảm từ mức cao nhất trong hai tuần do giá dầu thô giảm và đồng đô la Mỹ mạnh lên, bù đắp cho nguồn cung toàn cầu bị thắt chặt. Cụ thể, giá lúa mì phiên này giảm 8-1/4 cent xuống 7,41 USD sau khi chạm 7,52-1/2 lúc giao dịch qua đêm trước, mức cao nhất kể từ ngày 7 tháng 10.
Giá đường thô giảm phiên thứ 4 liên tiếp do các nhà đầu tư tiếp tục cắt giảm vị thế mua đối với mặt hàng này. Đường thô kỳ hạn tháng 3 kết thúc phiên giảm 0,03 cent, tương đương 0,2%, xuống 18,94 cent/lb, phiên giảm thứ tư liên tiếp; đường trắng giao tháng 12 giảm 1,40 USD, tương đương 0,3%, xuống 500,80 USD/tấn. Thời tiết ở Ấn Độ, Thái Lan và Brazil tiếp tục có mưa, gây thêm áp lực giảm giá đường.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 2,25 US cent, tương đương 1,1%, xuống 2,033 USD/lb; cà phê robusta giao tháng 1 phiên này tăng 4 USD, tương đương 0,2% lên 2.135 USD/tấn.
Các khu vực trồng cà phê của nhà sản xuất hàng đầu thế giới - Brazil -dự kiến sẽ tiếp tục hưởng lợi bởi thời tiết có mưa và nắng xen kẽ trong 2 tuần tới. Tuy nhiên, giá arabica vẫn tăng do cước vận chuyển trên toàn cầu cao kỷ lục, cản trở giá giảm.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
82,69
|
+0,19
|
+0,23%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
84,84
|
+0,23
|
+0,27%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
52.250,00
|
-120,00
|
-0,23%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
5,18
|
+0,06
|
+1,17%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
247,89
|
-0,12
|
-0,05%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
255,43
|
+0,52
|
+0,20%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
732,25
|
+9,75
|
+1,35%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
-400,00
|
-0,53%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.785,40
|
+3,50
|
+0,20%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.543,00
|
-3,00
|
-0,05%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
24,25
|
+0,08
|
+0,33%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
88,40
|
-1,10
|
-1,23%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.057,23
|
+4,34
|
+0,41%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.043,06
|
+25,31
|
+1,25%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
460,20
|
+4,35
|
+0,95%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.831,50
|
-354,00
|
-3,48%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.910,50
|
-159,00
|
-5,18%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.429,50
|
-134,00
|
-3,76%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
37.250,00
|
-965,00
|
-2,53%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
533,25
|
+1,00
|
+0,19%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
748,50
|
+7,25
|
+0,98%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
662,75
|
+2,75
|
+0,42%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,82
|
-0,01
|
-0,07%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.226,50
|
+2,50
|
+0,20%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
325,50
|
+1,50
|
+0,46%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
62,57
|
-0,01
|
-0,02%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
927,80
|
+0,40
|
+0,04%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.555,00
|
+50,00
|
+2,00%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
203,30
|
-2,25
|
-1,09%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,94
|
-0,03
|
-0,16%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
126,20
|
+3,40
|
+2,77%
|
Bông
|
US cent/lb
|
108,04
|
+1,90
|
+1,79%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
679,00
|
+2,70
|
+0,40%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
174,60
|
-4,20
|
-2,35%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,21
|
0,00
|
0,00%
|