Trên thị trường năng lượng, giá dầu hồi phục sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các quốc gia sản xuất dầu liên minh, gọi là OPEC+, có thể điều chỉnh các kế hoạch nhằm nâng sản lượng nếu các nước tiêu thụ dầu hàng đầu thế giới giải phóng kho dự trữ dầu chiến lược hoặc nếu đại dịch COVID-19 đe dọa ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ.
Kết thúc phiên này, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 81 US cent (1%), lên 76,75 USD/thùng. Trong khi đó, tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc cũng tăng nhẹ lên 79,70 USD/thùng. Giá cả hai loại dầu đều giảm hơn 1 USD vào đầu phiên, chạm mức thấp nhất kể từ ngày 1/10, trước khi hồi phục trở lại.
Lãnh đạo Nhật Bản và Ấn Độ cùng với Mỹ và các nền kinh tế lớn khác đang tìm cách giải phóng kho dự trữ dầu mỏ quốc gia để “hạ nhiệt” giá dầu. Trong ngày 23/11 có thể các nước này sẽ có thông tin chi tiết hơn về vấn đề này.
Những cuộc thảo luận về vấn đề này diễn ra sau khi Chính phủ Mỹ không thể thuyết phục OPEC + bơm thêm dầu ra thị trường, bởi các nhà sản xuất dầu mỏ hàng đầu cho rằng "thế giới hiện không thiếu dầu thô".
Trong cuộc họp chính sách vào tháng này, OPEC+ đã nhất trí duy trì kế hoạch tăng sản lượng dầu thêm 400.000 thùng/ngày kể từ tháng 12/2021. Tuy nhiên, giá dầu tăng trong phiên 22/11, sau khi hãng tin Bloomberg News (Mỹ) đưa tin rằng OPEC+ có thể thay đổi kế hoạch sản lượng của họ để đáp trả việc các nền kinh tế lớn giải phóng kho dự trữ dầu chiến lược.
Tổng thư ký Diễn đàn Năng lượng Quốc tế - có trụ sở tại Riyadh (Saudi Arabia), Joseph McMonigle, ngày 22/11 hy vọng OPEC+ sẽ duy trì kế hoạch bổ sung dần dần nguồn cung cho thị trường dầu.
Chủ tịch công ty tư vấn Facts Global Energy cho biết việc giải phóng kho dự trữ chiến lược bất kỳ sẽ chỉ ảnh hưởng tới giá dầu trong 2 tới 3 tuần.
“OPEC+ đang bám sát kế hoạch sản lượng hiện tại. Nếu họ định thay đổi thì đó là do các yếu tố bên ngoài không lường trước được, chẳng hạn như các lệnh phong tỏa xã hội trở lại ở châu Âu để ngăn chặn dịch COVID-19 lây lan, hoặc bất kỳ hình thức giải phóng kho dự trữ dầu chiến lược nào, hay sự biến động về nhu cầu nhiên liệu máy bay", ông McMonigle cho biết.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao ngay giảm 2% xuống 1.807,60 USD/ounce, sau khi chủ tịch Cục dự trữ liên bang Jerome Powell được đề cử cho nhiệm kỳ thứ 2, thúc đẩy dự kiến rằng ngân hàng trung ương này có thể theo hướng giảm hỗ trợ kinh tế.
Giá vàng giao ngay giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 5/11, là 1.804,30 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 2,3% xuống 1.809,3 USD/ounce.
Hiệp hội các nhà môi giới bất động sản Mỹ ngày 22/11 cho biết doanh số bán nhà hiện có tại Mỹ trong tháng 10 tăng 0,8% so với tháng Chín, lên mức đã điều chỉnh theo mùa là 6,34 triệu căn, duy trì mức tăng trưởng trong tháng trước đó.
Về những kim lọa cơ bản khác, giá bạc giao tháng 12 giảm 48,4 US cent, hay 1,95%, xuống 24,297 USD/ounce; bạch kim giao tháng 1/2022 giảm 20,9 USD, hay 2,02%, xuống 1.015,1 USD/ounce; palladium giảm 5,4% xuống 1.950,31 USD/ounce.
USD mạnh lên khiến vàng đắt đỏ cho người mua dùng những đồng tiền khác, trong khi lãi suất tăng cũng khiến chi phí giữ vàng cao hơn. Các nhà hoạch định chính sách của FED đang bàn luận về việc liệu có rút hỗ trợ kinh tế nhanh hơn để đối phó với lạm phát hay không, sau khi một trong những quan chức có ảnh hưởng nhất cho rằng ý tưởng này sẽ được bàn tại cuộc họp vào tháng 12.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng chịu áp lực bởi những lo ngại mới về nhu cầu ở Trung Quốc, thị trường dự kiến cân bằng hơn trong những tháng tới và USD mạnh lên. Giá đồng tăng sau khi New York mở cửa do số liệu bán nhà của Mỹ bất ngờ mạnh mẽ, nhưng đã quay đầu giảm vào cuối phiên. Mặc dù vậy, tính chung cả phiên giá vẫn tăng. Chốt phiên, giá đồng trên sàn giao dịch kim loại London LME tăng 0,6% lên 9.705 USD/tấn. Giá kim loại này giao dịch trong biên độ hẹp 400 USD trong những tuần gần đây.
Thị trường bất động sản Trung Quốc, chiếm 1/4 tổng sản phẩm quốc nội đã giảm mạnh kể từ tháng 5, với tâm lý dao động bởi khủng hoảng thanh khoản ngày càng gia tăng.
Dự án Kamoa-Kakula tại Congo đã sản xuất được 41.545 tấn quặng đồng trong quý 3, từ đầu năm tới ngày 15/11 sản xuất được hơn 77.500 tấn.
USD mạnh lên khiến các kim loại định giá bằng đồng tiền này đắt hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác, làm giảm nhu cầu.
Dự trữ đồng trên sàn LME ở mức 86.525 tấn, khoảng 1/3 mức hồi cuối tháng 8.
Giá thép tại Trung Quốc tăng, với thép cuộn cán nóng và thép thanh vằn tăng hơn 4% do các thương nhân chào đón sự cải thiện trong tiêu thụ kim loại công nghiệp. Nhu cầu đối với 5 sản phẩm thép chính của Trung Quốc gồm thép thanh, thép cuộn và thép cuộn cán nóng đã tăng trong hai tuần liên tiếp và tăng 4,2% trong tuần trước so với đầu tháng 11, theo số liệu từ công ty tư vấn Mysteel.
Giá thép thanh và thép cuộn cán nóng giao ngay tăng lần lượt khoảng 400 và 200 CNY so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2022 do tình hình tài chính bất động sản không thể đảo ngược nhu cầu thép giao trong tháng 1/2022. Theo đó, giá thép thanh tại sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đã tăng khoảng 4,3% lên 4.385 CNY (687,21 USD)/tấn. Đóng cửa chỉ tăng 2,3% lên 4.300 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng đóng cửa tăng 0,9% lên 4.405 CNY/tấn sau khi tăng 4,7% trong đầu phiên này. Thép không gỉ ở Thượng Hải tăng 1,2% lên 17.330 CNY/tấn.
Giá quặng sắt giao tháng 1/2022 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng 6,2% lên 558 CNY/tấn. Quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe xuất sang Trung Quốc tăng 1,5 USD lên 91,5 USD/tấn trong ngày 19/11, theo công ty tư vấn SteelHome.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ tăng lên mức cao nhất trong gần 9 năm do lo ngại về nguồn cung toàn cầu và nhu cầu ngày càng tăng từ các khách hàng trên thế giới. Ngô và đậu tương cũng tăng theo lúa mì, với hỗ trợ từ vụ thu hoạch yếu kém của Mỹ và nhu cầu trong nước mạnh từ các nhà sản xuất ethanol và chế biến đậu tương.
Trên sàn giao dịch Chicago, lúa mì mềm đỏ vụ đông giao tháng 3/2022 đóng cửa tăng 23-1/4 US cent lên 8,57-1/2 USD/bushel sau khi đạt 8,59-1/2 USD, cao nhất đối với loại hợp đồng được giao dịch nhiều nhất kể từ tháng 12/2012. Giá lúa mì của Nga tăng tuần thứ 5 liên tiếp trong bối cảnh nhu cầu mạnh từ các nhà nhập khẩu. Xuất khẩu của nước này giảm 34% kể từ ngày 1/7, do một vụ mùa ít hơn và thuế xuất khẩu.
Giá ngô CBOT kỳ hạn tháng 12 tăng 6 US cent lên 5,76-3/4 USD/bushel, trong khi đậu tương kỳ hạn tháng 1/2022 đóng cửa tăng 11 US cent lên 12,74-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2022 giảm 0,2% xuống 19,76 US cent/lb, tiếp tục thoái lui từ mức cao nhất 4,5 năm tại 20,69 US cent đã thiết lập trong tuần trước; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2022 giảm 0,8% xuống 508 USD/tấn.
Các đại lý cho biết đà tăng gần đây của thị trường dường như đã mất đà do lo ngại bởi giá cao có thể kích thích Ấn Độ xuất khẩu nhiều hơn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2022 đóng cửa giảm 2 US cent xuống 2,3130 USD/lb. Thị trường này trong phiên cuối tuần trước đã tăng lên 2,3955 USD, cao nhất trong gần 10 năm.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2022 tăng 6 USD lên 2.251 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường có thể giảm trong ngắn hạn sau khi tăng mạnh gần đây nhưng tâm lý vẫn lạc quan, với dự trữ của sàn giao dịch giảm và các nhà sản xuất ở Brazil không muốn bán ra.
Giá cao su Nhật Bản tăng do chính phủ chuẩn bị một gói kích thích khổng lồ giúp nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới này phục hồi từ đại dịch Covid-19. Hợp đồng cao su giao tháng 4/2022 trên sàn giao dịch Osaka tăng 8,6 JPY hay 7,5% lên 238,4 JPY/kg. Giá cao su giao tháng 1/2022 tại Thượng Hải tăng 4,7% lên 15.470 CNY/tấn.
Nhật Bản đã công bố gói chi tiêu kỷ lục 490 tỷ USD để giảm ảnh hưởng của đại dịch tới nền kinh tế.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

76,41

-0,34

-0,44%

Dầu Brent

USD/thùng

79,51

-0,19

-0,24%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

50.390,00

+1.110,00

+2,25%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,83

+0,04

+0,81%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

224,61

-1,41

-0,62%

Dầu đốt

US cent/gallon

232,31

-0,23

-0,10%

Dầu khí

USD/tấn

672,00

-2,00

-0,30%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

69.780,00

-2.280,00

-3,16%

Vàng New York

USD/ounce

1.814,60

+5,50

+0,30%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.665,00

-97,00

-1,43%

Bạc New York

USD/ounce

24,39

+0,02

+0,09%

Bạc TOCOM

JPY/g

88,50

-2,00

-2,21%

Bạch kim

USD/ounce

1.022,54

+8,38

+0,83%

Palađi

USD/ounce

1.990,25

+31,21

+1,59%

Đồng New York

US cent/lb

441,50

+1,85

+0,42%

Đồng LME

USD/tấn

9.726,50

+80,00

+0,83%

Nhôm LME

USD/tấn

2.689,50

+10,00

+0,37%

Kẽm LME

USD/tấn

3.348,50

+110,50

+3,41%

Thiếc LME

USD/tấn

38.817,00

+388,00

+1,01%

Ngô

US cent/bushel

582,75

-1,50

-0,26%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

858,50

+1,00

+0,12%

Lúa mạch

US cent/bushel

748,50

-8,50

-1,12%

Gạo thô

USD/cwt

14,37

-0,18

-1,24%

Đậu tương

US cent/bushel

1.278,75

+4,50

+0,35%

Khô đậu tương

USD/tấn

363,90

+0,20

+0,05%

Dầu đậu tương

US cent/lb

59,49

+0,14

+0,24%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

996,10

-0,90

-0,09%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.588,00

+5,00

+0,19%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

231,30

-2,10

-0,90%

Đường thô

US cent/lb

19,76

-0,23

-1,15%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

130,35

+3,05

+2,40%

Bông

US cent/lb

115,97

-0,46

-0,40%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

772,60

-29,30

-3,65%

Cao su TOCOM

JPY/kg

181,60

+1,20

+0,67%

Ethanol CME

USD/gallon

2,21

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet / VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)