Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng lên mức cao nhất trong vòng một tuần sau khi Mỹ và các nước tiêu thụ dầu lớn khác thông báo sẽ giải phóng hàng chục triệu thùng dầu từ các kho dự trữ để hạ nhiệt thị trường.
Khép phiên này, giá dầu Brent biển Bắc tăng 2,61 USD (3,3%) lên 82,31 USD/thùng, còn giá dầu thô ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) tăng 1,75 USD (2,3%) lên 78,50 USD/thùng. Đây là mức tăng phần trăm lớn nhất tính theo ngày của dầu Brent kể từ tháng 8/2021 và là mức đóng phiên cao nhất kể từ ngày 16/11.
Đồng USD mạnh hơn khiến giá dầu trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, điều mà các nhà giao dịch cho biết đã làm ảnh hưởng đến giá dầu.
Ngày 23/11, Mỹ thông báo sẽ xuất kho dự trữ chiến lược hàng triệu thùng dầu, theo một kế hoạch phối hợp với các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Anh để cố gắng hạ bớt giá dầu sau khi Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, nhiều lần phớt lờ lời kêu gọi tăng sản lượng dầu. Chính phủ của Tổng thống Mỹ Joe Biden cho biết Mỹ sẽ “giải phóng” 50 triệu thùng dầu từ Kho Dự trữ Xăng dầu Chiến lược (SPR), bắt đầu từ giữa đến cuối tháng 12/2021.
Tuy nhiên, các nhà phân tích cho biết tác động của động thái này đối với giá dầu có thể chỉ diễn ra trong ngắn hạn sau nhiều năm đầu tư sụt giảm và sự phục hồi mạnh của kinh tế thế giới sau đại dịch COVID-19.
Các cuộc thảo luận về việc phối hợp giải phóng dầu từ kho dự trữ, đồng USD mạnh lên và khả năng nhu cầu năng lượng bị ảnh hưởng bởi làn sóng dịch COVID-19 thứ tư ở châu Âu đã khiến giá dầu Brent giảm hơn 10% kể từ khi chạm mức cao nhất trong ba năm là 86,70 USD/thùng hôm 25/10.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cấp cao tại công ty dịch vụ môi giới OANDA (Mỹ) cho biết kế hoạch “bắt tay” xuất dầu từ SPR ít hơn dự kiến và sẽ không có gì ngạc nhiên nếu OPEC+ thu hẹp kế hoạch sản xuất của mình. Đến nay, OPEC+ đã liên tục từ chối các yêu cầu bơm thêm dầu từ Mỹ. Dữ liệu kỹ thuật thu thập được trước cuộc họp OPEC+ sắp diễn ra vào tháng 12/2021 đã chỉ ra tình trạng dư cung dầu sẽ xuất hiện trong quý I/2022.
Đà tăng giá dầu diễn ra trước lúc báo cáo lượng dầu dự trữ của Viện Xăng Dầu Mỹ (API), công bố ngày 23/11 và của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), công bố ngày 24/11. Các nhà phân tích dự đoán lượng dầu tại các kho của Mỹ sẽ giảm khoảng 500.000 thùng.
Trong khi đó, chỉ số đồng USD giao dịch gần mức cao nhất trong 16 tháng phiên 23/11 sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell được tái đề cử cho nhiệm kỳ thứ hai, củng cố đồn đoán của thị trường rằng lãi suất của Mỹ sẽ tăng vào năm 2022.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất trong gần 3 tuần do việc tái đề cử Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ Jerome Powell thúc đẩy đặt cược lãi suất tăng nhanh hơn, củng cố USD và trái phiếu kho bạc.
Theo đó, giá vàng giao ngay giảm 0,9% xuống 1788,51 USD/ounce; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 giảm 1,3% xuống 1783,8 USD/ounce. Giá vàng đã giảm gần 100 USD kể từ mức đỉnh 5 tháng tại 1.876,90 USD/ounce đã đạt được trong tuần trước.
Các nhà đầu tư đặt cược Powell sẽ đẩy nhanh tốc độ ngân hàng trung ương Mỹ bình thường hóa chính sách tiền tệ để đối phó tốt hơn với giá tiêu dùng đang tăng cao.
Công ty nghiên cứu thị trường IHS Markit (Vương quốc Anh) vừa công bố chỉ số nhà quản lý mua hàng (PMI) của Mỹ đã tăng lên 59,1 (điểm) trong tháng 11/2021 so với mức 58,4 (điểm) trong tháng 10/2021, cơ bản phù hợp với con số dự báo của các nhà kinh tế là 59 (điểm). Thị trường Mỹ sẽ đóng cửa vào thứ Năm nghỉ lễ Tạ ơn.
Về những kim loại quý khác, ggiá bạc giao tháng 12/2021 giảm 86,2 US cent (3,55%) xuống 23,435 USD/ounce; bạch kim giao tháng 1/2022 giảm 50,9 USD (5,01%) xuống 964,2 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do áp lực từ USD mạnh sau khi Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ Jerome Powell được đề cử nhiệm kỳ thứ hai, củng cố dự đoán của nhà đầu tư về lãi suất tăng trong năm 2022.
Giá đồng trên sàn giao dịch kim loại London LME giảm xuống 9.726 USD/tấn, kết thúc chuỗi tăng 3 phiên. Chỉ số USD so với rổ tiền tệ đạt mức cao mới trong 16 tháng. USD mạnh hơn khiến các hàng hóa định giá bằng USD đắt hơn cho người mua bằng đồng tiền khác.
Dự trữ đồng tại kho LME tăng lên 62.775 tấn so với 23.300 tấn một tháng trước, nhưng vẫn giảm khoảng 18% từ đầu năm tới nay và ở gần mức thấp nhất trong lịch sử.
Công ty Zijin Mining cho biết hội đồng quản trị đã chấp thuận đầu tư vào một nhà máy luyện kim trị giá 769 triệu USD cho dự án đồng Kamoa-Kakula cùng với công ty Ivanhoe Mines ở Cộng hòa Congo.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên có lúc tăng khoảng 9,9%, mức tăng mạnh nhất kể từ ngày 30/9, kết thúc phiên tăng 7,8% lên 585 CNY (91,96 USD)/tấn. Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe xuất sang Trung Quốc tăng 4 USD lên 95,5 USD/tấn trong ngày 22/11, theo công ty tư vấn SteelHome.
Các thành phần sản xuất thép cũng tăng. Giá than luyện cốc tăng 2,8% lên 1.919 CNY/tấn và giá than cốc tăng 1% lên 2.881 CNY/tấn.
Thép thanh tại Thượng Hải tăng 2,9% trong đầu phiên sau đó giảm và đóng cửa giảm 0,1% xuống 4.315 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng giảm 0,6% xuống 4.423 CNY/tấn. Thép không gỉ ở Thượng Hải tăng 1,6% lên 17.310 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ vụ đông tăng lên mức cao nhất 9 năm do lo ngại nguồn cung và việc mua vào mới nhiều hơn bù đắp áp lực chốt lời trước đó. Ngô cũng tiếp tục tăng trong phiên giao dịch yếu, trong khi đậu tương giảm do các nhà đầu tư thanh toán vị thế trước kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn trong tuần này. Những lo ngại về lạm phát đã củng cố thị trường hàng hóa nói chung.
Lúa mì CBOT mềm đỏ vụ đông kỳ hạn tháng 3/2022 tăng 10 US cent lên 8,67-1/2 USD/bushel, cao nhất đối với một hợp đồng được giao dịch nhiều nhất kể từ tháng 12/2012.
Lo ngại về tình trạng khan hiếm nguồn cung đã hỗ trợ giá lúa mì do mưa làm đình trệ việc thu hoạch tại Australia và đe dọa chất lượng lúa mì. Lũ lụt cũng làm gián đoạn các chuyến hàng từ miền tây Canada, trong khi giá tại Nga, nước xuất khẩu lúa mì hàng đầu thế giới tăng đều đặn.
Ngô kỳ hạn tháng 12 tăng 3-3/4 US cent lên 5,8-1/2 USD/bushel. Đậu tương kỳ hạn tháng 1/2022 giảm 1-1/4 US cent xuống 12,73 USD/bushel.
Khối lượng giao dịch ngũ cốc ít hơn bình thường do nhiều nhà đầu tư vắng mặt trong bối cảnh lịch trình giao dịch ít trong tuần này.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2022 tăng 1,4% lên 20,11 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2022 tăng 10,4 USD lên 518,4 USD/tấn.
Các đại lý cho biết họ đang theo dõi chặt chẽ khả năng hiện tượng thời tiết La Nina dẫn tới một vụ cà phê yếu kém tiếp nữa tại Brazil trong năm tới. Thời tiết La Nina có thể dẫn đến thời tiết khô hơn bình thường tại miền nam Brazil, một khu vực đã chịu hạn hán trong năm nay.
Chính phủ Brazil đã giảm gần 10% dự báo của họ về sản lượng đường trong niên vụ này tại khu vực trung nam, xuống 30,7 triệu tấn sau khi đánh giá ảnh hưởng của hạn hán và băng giá tới cây trồng.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2022 đóng cửa tăng gần 4% lên 2,4205 USD/lb sau khi đạt đỉnh 2,4475 USD, cao nhất kể từ tháng 10/2011; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2022 tăng 46 USD lên 2.297 USD/tấn. Trong phiên có lúc giá đã đạt 2.327 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 30/8/2011.
Ngân hàng Rabobank cho biết lo lắng về vấn đề vận chuyển đã thúc đẩy việc mua vào ở thị trường này. Các đại lý cho biết các nhà rang xay đang đổ xô mua hàng, họ đã từ bỏ hy vọng giá sẽ giảm.
Lượng cà phê lưu kho trên cả hai sàn London à New York đều tiếp tục giảm.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
78,44
|
-0,06
|
-0,08%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
82,06
|
-0,25
|
-0,30%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
51.270,00
|
+1.990,00
|
+4,04%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
4,94
|
-0,03
|
-0,52%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
231,73
|
-1,99
|
-0,85%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
237,63
|
-0,80
|
-0,34%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
688,00
|
+2,00
|
+0,29%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
72.320,00
|
+2.540,00
|
+3,64%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.797,90
|
+11,60
|
+0,65%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
6.624,00
|
-138,00
|
-2,04%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,66
|
+0,16
|
+0,69%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
87,10
|
-3,40
|
-3,76%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
983,25
|
+12,59
|
+1,30%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.892,05
|
+16,89
|
+0,90%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
441,60
|
-0,80
|
-0,18%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.710,50
|
-16,00
|
-0,16%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.668,50
|
-21,00
|
-0,78%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.301,00
|
-47,50
|
-1,42%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
38.870,00
|
+53,00
|
+0,14%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
588,00
|
-0,25
|
-0,04%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
868,50
|
+1,00
|
+0,12%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
758,75
|
+13,50
|
+1,81%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
14,38
|
-0,04
|
-0,28%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.276,50
|
+3,50
|
+0,27%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
356,00
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
60,65
|
+0,57
|
+0,95%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
996,20
|
-1,20
|
-0,12%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.568,00
|
-20,00
|
-0,77%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
242,05
|
+10,75
|
+4,65%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,11
|
+0,35
|
+1,77%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
130,15
|
-0,20
|
-0,15%
|
Bông
|
US cent/lb
|
115,66
|
-0,31
|
-0,27%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
779,40
|
+6,80
|
+0,88%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
178,70
|
+0,50
|
+0,28%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,21
|
0,00
|
0,00%
|