Trên thị trường năng lượng, giá dầu ổn định do gia tăng khả năng Đức sẽ tham gia cùng các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu khác trong lệnh cấm vận đối với dầu của Nga, điều này có thể làm thắt chặt hơn nữa nguồn cung trên thị trường dầu thô toàn cầu - vốn đã căng thẳng.
Các thương nhân đã phản ứng với các báo cáo truyền thông về bình luận hôm thứ Ba từ Bộ trưởng Kinh tế Đức Robert Habeck, người cho biết nền kinh tế lớn nhất của EU có thể đối phó với lệnh cấm vận của EU đối với nhập khẩu dầu của Nga, và Đức hy vọng sẽ tìm cách thay thế dầu Nga bằng nguồn cung khác.
Theo đó, giá dầu Brent tăng 2,27 USD lên 107,59 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 3,34 USD, tương đương 3,3%, lên 105,36 USD.
Đức phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu năng lượng của Nga và đã phản đối lệnh cấm hoàn toàn.
Trước khi xảy ra chiến tranh ở Ukraine, dầu của Nga chiếm khoảng 1/3 nguồn cung của Đức. Một tháng trước, Habeck cho biết nước này đã giảm phụ thuộc vào dầu của Nga xuống còn 25% lượng nhập khẩu.
Nga đã cắt nguồn cung cấp khí đốt cho Ba Lan và Bulgaria và đang cố gắng thúc đẩy EU áp dụng hệ thống thanh toán khí đốt mới của mình, bao gồm việc mở tài khoản tại ngân hàng Gazprombank, nơi các khoản thanh toán bằng euro hoặc USD sẽ được chuyển đổi thành rúp.
Theo một tài liệu của Bộ Kinh tế do Reuters đưa tin, sản lượng dầu của Nga có thể giảm tới 17% vào năm 2022, khi nước này phải đối mặt với các lệnh trừng phạt của phương Tây.
Bất chấp sự thiếu hụt dự kiến này, nhóm các nhà sản xuất OPEC + bao gồm Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh do Nga dẫn đầu dự kiến sẽ duy trì tốc độ tăng sản lượng khiêm tốn khi nhóm họp vào ngày 5/5.
Đồng USD đã tăng lên mức cao nhất trong hai thập kỷ vào thứ Năm, được thúc đẩy bởi sự suy yếu của các đồng tiền đối tác chủ chốt, chẳng hạn như đồng yên và đồng euro. Đồng đô la mạnh hơn thường giảm giá đối với giá dầu - được định giá bằng đồng bạc xanh, vì làm cho những hàng hóa này trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Tại Trung Quốc, Bắc Kinh đã đóng cửa một số không gian công cộng và tăng cường kiểm tra COVID-19 ở những nơi khác khi hầu hết 22 triệu cư dân của thành phố bắt đầu được xét nghiệm. trong nỗ lực ngăn chặn tình trạng bị phong tỏa giống như ở Thượng Hải. Đợt đóng cửa gần đây nhất đã làm gián đoạn các nhà máy và chuỗi cung ứng, làm dấy lên lo ngại về tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, công ty lọc dầu lớn nhất châu Á, Sinopec Corp, kỳ vọng nhu cầu về các sản phẩm dầu tinh luyện của nước này sẽ phục hồi trong quý II khi dịch COVID-19 đang dần được kiểm soát.
Đối với mặt hàng than, giá kỳ hạn tương lai trên sàn Đại Liên phiên n ày giảm khoảng 3% do giá thị trường giao ngay giảm.
Theo đó, giá than luyện cốc kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên có lúc giảm 3,8% xuống 2.780 nhân dân tệ (421,67 USD)/tấn; kết thúc phiên giảm 1,6% xuống 2.843 nhân dân tệ/tấn. Giá than cốc trên sàn Đại Liên cũng giảm 1,4% xuống 3.561 nhân dân tệ/tấn, sau khi có lúc giảm 3% trong cùng phiên.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục ở quanh mức thấp nhất trong vòng 10 tuần do đồng USD mạnh lên và kỳ vọng về việc Mỹ sẽ tăng lãi suất nhanh hơn dự kiến.
Theo đó, giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.890,90 USD; trong phiên có lúc giá chạm mức thấp nhất kể từ ngày 17 tháng 2, là 1.871,81 USD. Giá vàng kỳ hạn tương lai tăng 0,1% lên 1.891,30 USD.
Nhà phân tích cấp cao Jim Wycoff của Kitco cho biết: "Có một sự tăng nhẹ về giá vì chúng tôi hiện đang chứng kiến một số nhu cầu ngắn hạn sau những đượt giá giảm gần đây. Các nhà đầu cơ ngắn hạn đang chốt lời từ các vị thế bán của họ".
"Gần đây, giá vàng đã giảm khá nhiều khi chỉ số USD chạm mức cao và lợi suất trái phiếu tăng ... Nền kinh tế vẫn ở trạng thái khá tốt và lạm phát cần được kiểm soát."
Chỉ số đô la Mỹ tăng vào thứ Năm lên mức cao nhất kể từ tháng 12 năm 2002 trong bối cảnh các đồng tiền đối tác chủ chốt giảm giá.
"Với việc Fed đã chứng kiến việc tăng lãi suất lên 50 điểm cơ bản và có thể là 75 điểm cơ bản trong hai cuộc họp tiếp theo sau ngày 4/5, nhu cầu đối với đồng USD dự báo sẽ tieepx tục mạnh. ... Rất khó để vàng có thể tăng giá vào lúc này, "Fawad Razaqzada, nhà phân tích thị trường thuộc City Index, cho biết.
Giá vàng đã giảm khoảng 2,7% trong tháng này, đây có thể là mức giảm hàng tháng lớn nhất kể từ tháng 9, do kỳ vọng về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ thắt chặt chính sách tiền tệ và đồng đô la mạnh lên. Việc tăng lãi suất nhanh chóng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không có lợi suất.
Nền kinh tế Hoa Kỳ suy thoái trong quý đầu tiên của năm nay, giữa bối cảnh số ca nhiễm COVID-19 tăng và Chính phủ giảm hỗ trợ cho đại dịch. Trong khi đó, số đơn xin thất nghiệp hàng tuần giảm 5.000 xuống còn 180.000 đơn.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,8% xuống 23,10 USD/ounce, chạm mức thấp nhất kể từ ngày 11 tháng 2; bạch kim tăng 0,3% lên 919,92 USD/ounce và palladium tăng 1,1% lên 2.227,15 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng chạm mức thấp nhất trong vòng gần 3 tháng sau khi tăng trưởng kinh tế Mỹ bất ngờ giảm, làm dấy lên lo ngại về việc tăng trưởng toàn cầu yếu đi sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu kim loại.
Tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ đã giảm với tốc độ 1,4% hàng năm trong quý 1/2022, trước đó các nhà kinh tế dự kiến tăng trưởng sẽ tăng với tốc độ 1,1%, dữ liệu cho thấy hôm thứ Năm.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,7% xuống 9,687 USD/tấn vào cuối phiên, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 1 tháng 2.
Tiền tệ cũng gây áp lực lên thị trường kim loại khi chỉ số đô la Mỹ tăng lên mức cao nhất trong hai thập kỷ, có nghĩa là kim loại bằng đô la sẽ đắt đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này giảm 2,2% xuống 3.025 USD/tấn, chì giảm 1,3% xuống 2.251,50 USD, kẽm giảm 2,4% xuống 4,118 USD, nickel giảm 1% xuống 32,975 USD, nhưng thiếc tăng 0,2% lên 40,065 USD.
Trong nhóm sắt thép, lợi nhuận thấp tại các nhà máy ảnh hưởng đến nhu cầu ở hạ nguồn đối với các nguyên liệu sản xuất thép.
Giá quặng sắt Đại Liên tăng 3,5% lên 852 nhân dân tệ/tấn. Giá quặng sắt 62% giao ngay cho Trung Quốc, được công ty tư vấn SteelHome công bố, không đổi ở mức 139,5 USD/tấn.
Giá các sản phẩm thép trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giao dịch trong một biên độ hẹp. Thép cây làm vật liệu xây dựng giao tháng 10 giảm 0,3% xuống 4.850 nhân dân tệ/tấn.
Giá thép cuộn cán nóng, được sử dụng trong ô tô và thiết bị gia dụng, không đổi so với phiên trước ở mức 4.950 nhân dân tệ/tấn khi thị trường đóng cửa. Hợp đồng thép không gỉ kỳ hạn giao tháng 6 tại Thượng Hải nhích 0,6% lên 19.450 nhân dân tệ/tấn.
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cho biết tại cuộc họp Hội đồng Nhà nước hôm thứ Tư rằng nước này sẽ giải quyết các nút thắt trong chuỗi cung ứng bị ảnh hưởng bởi COVID-19 bằng cách giảm bớt tắc nghẽn tại các cảng và sân bay cũng như khôi phục dịch vụ giao hàng.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ tăng, có lúc chạm mức cao nhất trong 10 năm, do dự báo mưa nhiều sẽ làm trì hoãn việc trồng trọt ở vùng Trung Tây ngập nước. Giá đậu tương và lúa mì kỳ hạn cũng giảm. Các thương nhân lưu ý rằng tốc độ trồng ngô chậm có thể khiến diện tích trồng đậu tương tăng do lịch đã qua ngày lý tưởng để gieo hạt ngô.
Bill Biedermann, một đối tác của AgMarket.Net, cho biết: “Thời tiết thực sự là một yếu tố rất quan trọng hiện nay. "Các bản đồ thời tiết cho thấy rằng có thể có một số trận mưa lớn ở một phần nhỏ của Vành đai ngô."
Theo đó, giá ngô kỳ hạn tháng 7 trên sàn Chicago tăng 3/4 cent lên 8,13-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc giá đạt 8,19-3/4 USD, mức cao nhất kể từ tháng 8 năm 2012.
Giá đậu tương giao tháng 7 giảm 8 US cent xuống 16,84-3/4 USD/bushel; lúa mì đỏ mềm vụ đông giao tháng 7 giảm 5-1/2 cent xuống 10,85-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô tăng sau khi dữ liệu cho thấy lượng mía ép ở nhà sản xuất hàng đầu - Brazil - giảm mạnh trong nửa đầu tháng 4, mặc dù đồng USD mạnh hạn chế đà tăng.
Theo đó, giá đường thô tăng 0,4 cent, tương đương 2,1%, lên 19,42 cent/lb, chạm mức thấp nhất kể từ ngày 18/3 là 18,80 cent vào thứ Tư.
Sản lượng ép mía ở Trung Nam của Brazil giảm 66,9% trong nửa đầu tháng 4 so với một năm trước, thấp hơn nhiều so với kỳ vọng của thị trường.
Ngân hàng Rabobank dự kiến giá đường sẽ đạt trung bình 19,60 cent trong quý thứ ba, tăng từ 19,30 cent trong quý thứ hai, do khả năng xuất khẩu năng lượng của Nga bị gián đoạn, tình trạng thiếu phân bón toàn cầu và căng thẳng liên quan đến cuộc bầu cử sắp tới ở Brazil.
Giá đường trắng giao tháng 8 tăng 4,00 USD, tương đương 0,8%, lên 527,50 USD/tấn.
Giá cà phê arabica giao tháng 7 tăng 2,05 cent, tương đương 1,0% lên 2,176 USD/lb. Trong phiên liền trước, giá chạm mức thấp nhất kể từ ngày 30/3 là 2,1455 USD. Giá cà phê robusta giao tháng 7 tăng 57 USD, tương đương 2,8% lên 2.089 USD/tấn.
Thời tiết khô hạn cũng đang trở thành mối quan tâm của những người trồng trọt hàng đầu Brazil, mặc dù thu hoạch thuận lợi. Vườn sẽ cần thêm độ ẩm trước khi ra hoa tiếp theo vào nửa cuối năm.
Citi dự kiến Brazil sẽ sản xuất 65,5 triệu bao vào năm 2022/23, một trong những ước tính cao nhất cho đến nay trên thị trường. Ngân hàng nhận thấy cán cân cung ứng toàn cầu chuyển từ mức thâm hụt 7,3 triệu bao vào năm 2021/22 sang thặng dư 3,5 triệu bao vào năm 2022/23.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

105,04

-0,32

-0,30%

Dầu Brent

USD/thùng

107,55

-0,04

-0,04%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

75.500,00

+450,00

+0,60%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

6,95

+0,06

+0,84%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

347,33

-3,01

-0,86%

Dầu đốt

US cent/gallon

513,54

+46,11

+9,86%

Dầu khí

USD/tấn

1.200,00

+9,25

+0,78%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

79.680,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.897,70

+6,40

+0,34%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.951,00

+131,00

+1,68%

Bạc New York

USD/ounce

23,28

+0,10

+0,43%

Bạc TOCOM

JPY/g

100,00

+2,30

+2,35%

Bạch kim

USD/ounce

922,20

+0,70

+0,08%

Palađi

USD/ounce

2.247,85

+10,62

+0,47%

Đồng New York

US cent/lb

444,10

+0,75

+0,17%

Đồng LME

USD/tấn

9.697,00

-159,00

-1,61%

Nhôm LME

USD/tấn

3.031,50

-62,00

-2,00%

Kẽm LME

USD/tấn

4.136,50

-83,00

-1,97%

Thiếc LME

USD/tấn

40.045,00

+45,00

+0,11%

Ngô

US cent/bushel

812,25

-1,25

-0,15%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

1.084,50

-1,25

-0,12%

Lúa mạch

US cent/bushel

676,00

+4,25

+0,63%

Gạo thô

USD/cwt

16,96

-0,19

-1,14%

Đậu tương

US cent/bushel

1.684,50

-0,25

-0,01%

Khô đậu tương

USD/tấn

431,40

+1,30

+0,30%

Dầu đậu tương

US cent/lb

86,26

-0,34

-0,39%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

1.124,00

-0,10

-0,01%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.567,00

+30,00

+1,18%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

217,60

+2,05

+0,95%

Đường thô

US cent/lb

19,23

+0,33

+1,75%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

173,30

+1,10

+0,64%

Bông

US cent/lb

147,68

+7,00

+4,98%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

911,90

-7,00

-0,76%

Cao su TOCOM

JPY/kg

158,60

-0,60

-0,38%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)