Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do lượng dầu thô dự trữ của Mỹ giảm cho thấy nguồn cung đang thắt chặt giữa bối cảnh lo ngại về các lệnh trừng phạt mới của phương Tây đối với Nga.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 3,22 USD, hay 2,9%, lên 113,45 USD/thùng, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 3,58 USD, hay 3,4%, lên 107,82 USD/thùng.
Số liệu từ Chính phủ Mỹ cho thấy lượng dầu thô dự trữ của nước này đã giảm 3,4 triệu thùng trong tuần trước, nhiều hơn dự đoán, xuống còn 410 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 9/2018.
Tuy nhiên, các nhà giao dịch cho biết đà tăng của giá dầu phần nào bị hạn chế bởi sự gia tăng bất ngờ trong lượng xăng và các sản phẩm chưng cất dự trữ của Mỹ trong tuần trước, cũng như nhu cầu thấp hơn đối với cả hai sản phẩm này. Sau vài tuần giữ ổn định, sản lượng dầu thô của Mỹ tăng 100.000 thùng/ngày trong tuần trước lên 11,7 triệu thùng/ngày, trong khi dự trữ dầu thô của kho dự trữ chiến lược xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2002, và công suất của nhà máy lọc dầu Bờ Vịnh tăng lên cao nhất kể từ tháng 1/2020.
Bên cạnh đó, giá dầu còn được hỗ trợ khi Mỹ và các nước đồng minh đang lên kế hoạch cho các lệnh trừng phạt mới đối với nhiều lĩnh vực hơn của nền kinh tế Nga, trong đó có chuỗi cung ứng quân sự.
Trong khi đó, Điện Kremlin thông báo tất cả năng lượng và hàng hóa xuất khẩu của Nga có thể được định giá bằng đồng rúp vì Tổng thống Vladimir Putin tìm cách khiến phương Tây cảm thấy phiền lòng vì các lệnh trừng phạt. Để đối phó với việc Nga có thể cắt nguồn cung khí đốt, Đức đã khởi động một kế hoạch khẩn cấp để quản lý nguồn cung. Các quốc gia Châu Âu khác cũng thực hiện các bước để duy trì nguồn khí đốt.
Ngoài ra, nhiều nguồn thạo tin cho hay trong cuộc họp vào ngày 31/3, Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, có thể sẽ giữ nguyên mức tăng sản lượng mục tiêu khoảng 432.000 thùng/ngày.
Tuy nhiên, nhu cầu suy yếu ở Trung Quốc đang gây áp lực lên giá dầu, khi nước này áp đặt nhiều biện pháp hạn chế đi lại và lệnh phong tỏa liên quan đến dịch COVID-19 ở nhiều thành phố, trong đó có trung tâm tài chính Thượng Hải.
Trong khi đó, số liệu của Mỹ cho thấy số việc làm trong khu vực tư nhân ở nước này đã duy trì đà tăng khá trong tháng Ba, qua đó khiến giới đầu tư lo ngại rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ đẩy nhanh lộ trình nâng lãi suất, từ đó có thể làm giảm đà tăng trưởng kinh tế và nhu cầu nhiên liệu.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng khoảng 1% bởi đồng USD giảm giá và những nghi ngờ về khả năng ngừng bắn ở Ukraine.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.932,14 USD/ounce, vàng giao sau tăng 1,1% lên 1.939 USD/ounce.
Chỉ số Dollar index giảm 0,6% xuống gần mức thấp nhất trong hai tuần, khiến vàng định giá bằng đồng bạc xanh này rẻ hơn cho những người mua bằng đồng tiền khác. Số liệu kinh tế Mỹ công bố hôm 30/3 có sự trái chiều. Bộ Thương mại Mỹ cho biết số liệu điều chỉnh lần ba cho thấy Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng 6,9% trong quý IV/2021, giảm nhẹ so với ước tính 7% trước đó.
Theo công ty cung cấp dữ liệu việc làm ADP, số việc làm trong khu vực tư nhân của Mỹ đã tăng 455.000 từ tháng Hai đến tháng Ba và phù hợp với dự kiến trước đó.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 5 kết thúc hiên tăng 37,7 US cent (1,52%), đóng cửa ở mức 25,113 USD/ounce; bạch kim giao tháng Bảy tăng 22,4 USD (2,29%), đóng cửa ở mức 1.001,2 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá hầu hết tăng do USD giảm khiến các kim loại rẻ hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác.
Nhôm – kim loại được sử dụng trong đóng gói, vận chuyển và xây dựng - trên sàn giao dịch LME tăng 3,3% lên 3.549 USD/tấn. Kim loại này đã tăng khoảng 25% trong năm nay sau khi tăng 42% trong năm 2021 khi thiếu hụt nguồn cung. Giá khí đốt cao làm tăng chi phí điện quá cao khiến các nhà máy luyện tại Châu Âu phải cắt giảm sản lượng nhôm và kẽm trong những tháng gần đây.
Công ty Rusal của Nga, nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới bên ngoài Trung Quốc cho biết các lệnh trừng phạt có thể trì hoãn các dự án đầu tư và ảnh hưởng tới lợi nhuận của họ. Các chuyến hàng quặng của công ty này từ các mỏ bauxite ở Guinea đã phải tạm dừng.
Nga là nhà sản xuất lớn về nhôm, đồng và nickel, cũng như khí đốt và than sử dụng để cung cấp năng lượng cho các nhà máy luyện. Giá tăng kể từ khi Moscow tập trung quân gần Ukraine và tiến hành chiến dịch quân sự vào ngày 24/2, gây ra các lệnh trừng phạt và làm gián đoạn các nguồn cung cấp.
Tuy nhiên, các biện pháp kiểm soát Covid-19 khiến một số nhà máy ở Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại lớn nhất đang đóng cửa.
Giá quặng sắt Trung Quốc tăng phiên thứ 5 liên tiếp do thị trường dự kiến nhu cầu khôi phục mạnh mẽ tại Trung Quốc khi những hạn chế về Covid-19 được dỡ bỏ.
Trung Quốc đã nâng giới hạn giao dịch và yêu cầu ký quỹ với một số sản phẩm tương lai của họ, gồm quặng sắt. Nhưng thay đổi về giới hạn giao dịch và tỷ lệ ký quỹ sẽ có hiệu lực kể từ ngày 31/3.
Giá quặng sắt Đại Liên giao tháng 9 đóng cửa phiên này tăng 3% lên 895 CNY (140,9 USD)/tấn, sau khi chạm 898 CNY, mức cao nhất kể từ ngày 9/8. Trên sàn giao dịch Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5 tăng 2,4% lên 158,3 USD/tấn. Giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 0,2%, thép cuộn cán nóng giảm 0,4%. Thép không gỉ tăng 2,6%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ tăng theo ngô và lúa mì do lo lắng về ảnh hưởng của cuộc chiến ở Ukraine và do các thương gia chuẩn bị cho các báo cáo dự trữ và trồng trọt quan trọng của chính phủ Mỹ. Ngô và lúa mì tăng do Nga tiếp tục thực hiện tấn công tại Ukraine, một ngày sau khi các thị trường hàng hóa giảm bởi Nga hứa giảm hoạt động quân sự quanh Kyiv.
Cụ thể, đậu tương kỳ hạn tháng 5 đóng cửa tăng 21 US cent lên 16,64 USD/bushel; giá ngô giao cùng kỳ hạn tăng 11-3/4 US cent lên 7,38 USD/bushel; lúa mì mềm đỏ vụ đông giao tháng 5 tăng 13 US cent lên 10,27-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 lúc đóng cửa tăng 0,36 US cent hay 1,9% lên 19,47 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 5 giảm 3,6 USD hay 0,7% xuống 537,2 USD/tấn.
Ngân hàng Rabobank cho biết giá đường có thể cần tăng tiếp để khuyến khích các nhà máy tại Brazil sản xuất đường với công suất tối đa.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 lúc đóng cửa tăng 6,15 US cent hay 2,9% lên 2,2185 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 tăng 27 USD hay 1,3% lên 2.152 USD/tấn.
Lượng cà phê lưu trữ tại các sàn giao dịch bắt đầu giảm trở lại, xuống 1,11 triệu bao tính tới ngày 28/3, giảm từ 1,14 triệu bao vào cuối tuần trước. Tuy nhiên, tốc độ xuất khẩu của Brazil mạnh mẽ gần đây và thời tiết thuận lợi tại nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới này sẽ hạn chế khả năng tăng giá.
Giá cao su Châu Á tăng do nguồn cung nguyên liệu thô thắt chặt từ Thái Lan và nhu cầu cao su mạnh từ các nhà máy sản xuất lốp tại Trung Quốc đã khôi phục sản xuất.
Theo đó, cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Osaka lúc đóng cửa tăng 3,7 JPY, hay 1,5% lên 256,3 JPY (2,1 USD)/kg, đánh dấu phần trăm tăng một ngày mạnh nhất kể từ ngày 22/3. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5 tại Thượng Hải cũng tăng 220 CNY lên 13.585 CNY (2.138,76 USD)/tấn, trong phiên có lúc giá tăng hơn 1,9%, nhiều nhất kể từ ngày 9/3.
Trong khi một số nhà máy vẫn tạm dừng sản xuất và đang đối mặt với sự chậm trễ về hậu cần bởi Covid-19 đang tăng lên ở Trung Quốc, nhu cầu cao su từ nước này đang có dấu hiệu tăng trở lại.
Nguồn cung nguyên liệu thô từ Thái Lan cũng thắt chặt do mùa đông đang tiếp diễn tại nước này, và những người khai thác cao su Thái Lan chỉ khôi phục khai thác sau khi nước này đón năm mới vào giữa tháng 4.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
103,13
|
-4,69
|
-4,35%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
109,00
|
-4,45
|
-3,92%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
72.890,00
|
+390,00
|
+0,54%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
5,55
|
-0,05
|
-0,96%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
320,31
|
-12,19
|
-3,67%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
371,48
|
-9,37
|
-2,46%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.055,25
|
-32,25
|
-2,97%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
82.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.931,60
|
-7,40
|
-0,38%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.553,00
|
+25,00
|
+0,33%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
24,83
|
-0,28
|
-1,13%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
97,80
|
+0,30
|
+0,31%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
987,85
|
-6,77
|
-0,68%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.250,57
|
-18,49
|
-0,81%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
472,35
|
-2,70
|
-0,57%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
10.367,50
|
+51,00
|
+0,49%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
3.551,00
|
+115,00
|
+3,35%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
4.149,00
|
+122,00
|
+3,03%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
42.493,00
|
+69,00
|
+0,16%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
736,00
|
-2,00
|
-0,27%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
1.028,50
|
+1,25
|
+0,12%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
716,25
|
-13,75
|
-1,88%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,86
|
-0,06
|
-0,38%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.656,00
|
-8,00
|
-0,48%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
472,60
|
-0,50
|
-0,11%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
71,55
|
-0,67
|
-0,93%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
953,90
|
-7,40
|
-0,77%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.651,00
|
+12,00
|
+0,45%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
221,85
|
+6,15
|
+2,85%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,47
|
+0,36
|
+1,88%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
148,15
|
+2,35
|
+1,61%
|
Bông
|
US cent/lb
|
140,09
|
+0,25
|
+0,18%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
1.001,70
|
-52,30
|
-4,96%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
175,40
|
+0,60
|
+0,34%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|