Năng lượng: Giá dầu tăng gần 10% trong tuần
Phiên cuối tuần (13/1), giá dầu tăng hơn 1 USD/thùng, tính chung cả tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 10/2022 do đồng USD giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 7 tháng và nhu cầu từ nước nhập khẩu dầu hàng đầu thế giới – Trung Quốc – gia tăng.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent tăng 1,25 USD, tương đương 1,5%, lên 85,28 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng phiên thứ 7 liên tiếp, tăng 1,47 USD tương đương 1,9%, lên 79,86 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều chốt phiên ở mức cao nhất kể từ ngày 30/12.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent tăng 8,6%, trong khi dầu WTI tăng 8,4%, bù đắp mức giảm mạnh tuần trước đó.
Nước nhập khẩu dầu hàng đầu Trung Quốc đang mở cửa kinh tế trở lại sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện các hạn chế nhằm kiểm soát dịch COVID-19, thúc đẩy hy vọng nhu cầu dầu tăng cao hơn.
Chỉ số đồng USD giảm xuống mức thấp nhất hơn 7 tháng, sau số liệu lạm phát trong tháng 12/2022 giảm – lần đầu tiên – trong 2,5 năm, dấy lên kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất.
Số liệu cho thấy giá tiêu dùng của Mỹ bất ngờ giảm trong tháng 12/2022 và tâm lý lạc quan về triển vọng nhu cầu của Trung Quốc. Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ đã giảm 0,1% so với tháng trước, cho thấy lạm phát hiện đang duy trì xu hướng đi xuống.
Cùng với đó, lo ngại về tác động của các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với sản lượng dầu thô của Nga cũng lấn át áp lực từ sự gia tăng bất ngờ trong lượng dự trữ dầu thô của Mỹ.
Kim loại quý: Giá vàng tăng gần 3% trong tuần qua
Giá vàng tăng lên mức cao nhất hơn 8 tháng, vượt ngưỡng 1.900 USD/ounce do lạm phát của Mỹ giảm, làm dấy lên kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ tăng lãi suất chậm lại.
Kết thúc phiên 13/1, giá vàng giao ngay tăng 1,3% lên 1.920,7 USD/ounce, cao nhất kể từ cuối tháng 4/2022; tính chung cả tuần, giá vàng tăng 2,9%. Giá vàng kỳ hạn tháng 2/2023 tăng 1,2% lên 1.921,7 USD/ounce.
Giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 12/2022 giảm lần đầu tiên trong hơn 2,5 năm.
Giá bạc tăng 2,1% lên 24,28 USD/ounce và có tuần tăng mạnh nhất kể từ tuần kết thúc ngày 23/12/2022.
Chỉ số USD giảm gần 1% trong phiên 12/1, sau khi số liệu về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ được công bố. Trong phiên 13/1, chỉ số này giảm gần 0,1%, xuống 102,192 (điểm).
Theo nhà phân tích thị trường Rupert Rowling tại Kinesis Money, số liệu CPI cho thấy lạm phát hiện đang có chiều hướng giảm, dù vẫn cao hơn nhiều so với mục tiêu 2% của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Fed có thể tiếp tục tăng lãi suất tại cuộc họp vào cuối tháng này, nhưng có thể chỉ tăng 25 điểm cơ bản.
Trong khi đó, số liệu công bố ngày 13/1 cho thấy chỉ số lòng tin tiêu dùng tại Mỹ tăng lên 64,6 (điểm) trong tháng Một, mức cao nhất trong một tháng, cho thấy những lo ngại về lạm phát đã giảm bớt.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 2,1% lên 24,28 USD/ounce, tính chung cả tuần tăng mạnh nhất kể từ tuần của ngày 23 tháng 12; bạch kim giảm 0,2% xuống còn 1.065,62 USD và palladium giảm 0,2% ở mức 1.788,85 USD, tính chung cả tuần giảm.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng 7% trong tuần
Giá đồng duy trì vững trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần tăng 7% do đồng USD suy yếu và kỳ vọng Trung Quốc dỡ bỏ các hạn chế chống Covid-19 sẽ thúc đẩy nhu cầu.
Kết thúc phiên này, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London duy trì ổn định ở mức 9.190,5 USD/tấn, giảm từ mức cao nhất 7 tháng (9.240 USD/tấn). Tính chung cả tuần, giá đồng tăng 7%.
Dự kiến, tiêu thụ đồng của Trung Quốc trong năm 2023 sẽ tăng 4,4% lên 14,8 triệu tấn, Fitch Solutions Country Risk và Industry Research cho biết.
Chính sách Zero COVID của Trung Quốc đã kìm hãm nhu cầu kim loại tại quốc gia tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới. Việc từ bỏ chính sách đã gây ra làn sóng lây nhiễm COVID-19 có khả năng kéo dài trong hai đến ba tháng.
Nhà phân tích Nitesh Shah của WisdomTree cho biết: "(Nhưng) hầu hết các nhà đầu tư đang xem xét tiềm năng nhu cầu đồng của Trung Quốc tăng lên rõ rệt". Ông nói: “Có thể dễ dàng đạt được trên 10.000 đô la (một tấn)”, đồng thời cho biết thêm rằng nguồn cung đồng có thể vẫn bị thắt chặt trong năm nay.
Một quan chức Trung Quốc hôm thứ Sáu đã cam kết hỗ trợ thêm từ ngân hàng trung ương cho các nhà sản xuất và công ty nhỏ. Tiêu thụ đồng năm 2023 của Trung Quốc dự kiến sẽ tăng 4,4% lên 14,8 triệu tấn.
Đồng đô la giảm xuống mức yếu nhất kể từ tháng 6 sau khi lạm phát của Mỹ chậm lại làm tăng kỳ vọng rằng việc tăng lãi suất của Mỹ sẽ sớm kết thúc. Đồng đô la yếu hơn làm cho các kim loại định giá bằng đồng đô la rẻ hơn đối với người mua bằng các loại tiền tệ khác.
Đối với những lim loại cơ bản khác giá kẽm tăng 2,5% lên 3.317,50 USD/tấn do lượng dự trữ tại các kho đã đăng ký của LME giảm xuống 20.975 tấn, mức thấp nhất trong lịch sử và giảm từ mức gần 300.000 tấn vào đầu năm 2022. Giá thiếc tăng 5,4% lên 28.900 USD sau khi một mỏ lớn ở Peru tạm ngừng hoạt động. Giá nhôm tăng 2,4% lên 2.610,50 USD/tấn, niken giảm 0,9% xuống 26.765 USD và chì tăng 2,2% lên 2.247 USD.
Giá các kim loại công nghiệp đều đồng loạt tăng trong tuần, với nhôm, kẽm và thiếc tăng từ 10% đến 14%.
Giá quặng sắt trên sàn giao dịch Đại Liên tăng hơn 3% lên mức cao nhất 17 tháng và có tuần tăng, do lạc quan về triển vọng nhu cầu tại nước sản xuất thép hàng đầu – Trung Quốc.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên tăng 3,4% lên 881 CNY (130,96 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao nhất kể từ tháng 8/2021 (883 CNY/tấn) trong đầu phiên giao dịch. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn Singapore tăng 3,5% lên 126,4 USD/tấn - cao nhất kể từ tháng 6/2022. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,1%, thép cuộn cán nóng tăng 0,9%, thép cuộn tăng 0,4% và thép không gỉ tăng 0,7%.
Mối lo ngại về nguồn cung toàn cầu thúc đẩy giá quặng sắt tăng, sự gián đoạn liên quan đến thời tiết tại Brazil và lốc xoáy tại Australia – nước xuất khẩu quặng sắt lớn nhất thế giới và quá trình bảo trì mỏ khai thác trong quý đầu tiên của năm.
Nông sản: Giá đậu tương, ngô và lúa mì đều tăng
Giá đậu tương Mỹ trên sàn Chicago tăng liên tiếp 3 phiên cuối tuần, trong khi giá ngô tăng lên mức cao nhất 1,5 tuần, do lo ngại thời tiết xấu tại khu vực Nam Mỹ.
Trên sàn Chicago phiên 13/1, giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 9-1/4 US cent lên 15,27-3/4 USD/bushel; tính chung cả tuần, giá đậu tương tăng 2,3%. Giá ngô kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 4 US cent lên 6,75 USD/bushel; tính chung cả tuần, giá ngô tăng 3,2% - tuần tăng mạnh nhất trong 4,5 tháng. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 1 US cent lên 7,43-3/4 USD/bushel.
Thị trường CBOT phục hồi trước kỳ nghỉ cuối tuần kéo dài ba ngày. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) không công bố số liệu doanh số bán hàng mới.
Xu hướng giá trung lập sẽ được kéo dài sang mùa Xuân sau khi Mỹ cắt giảm sản lượng vào ngày 12/1. Vẫn khó để có thể lạc quan về thị trường nông sản trong thời gian dài trong bối cảnh thiếu yếu tố thúc đẩy nhu cầu và cải thiện độ ẩm trong đất tại Mỹ và châu Âu. Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago tiếp tục bán ra chốt lời.
Doanh số xuất khẩu ngô trong tuần kết thúc vào ngày 5/1 là 10 triệu bushel, mức thấp nhất kể từ tháng 9/2022.
Dữ liệu về kho dự trữ tăng tại Mỹ được công bố ngày 12/1 cho thấy cần phải chú ý nhiều hơn đến thời tiết của Argentina trong tháng Hai và nhu cầu của Trung Quốc vào mùa Xuân.
Nhiệt độ cực cao và khô hạn sẽ tiếp diễn tại Argentina vào cuối tuần tới. Phần còn lại của Brazil vẫn đủ ẩm và ôn hòa vào cuối tháng 1/2023.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,14 US cent tương đương 0,7% lên 19,73 US cent/lb. Đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London tăng 8 USD tương đương 1,5% lên 547,3 USD/tấn.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE tăng, song có tuần giảm 4,17% - tuần giảm thứ 3 liên tiếp, do triển vọng cây trồng tại nước sản xuất hàng đầu – Brazil – được cải thiện, gây áp lực giá.
Giá cà phê kỳ hạn tiếp nối đà tăng khi chỉ số đồng USD giảm sau khi thị trường suy đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chỉ tăng lãi suất thêm 0,25% tại phiên họp chính sách giữa tháng 2/2023 tới. Điều này đã hỗ trợ tâm trạng nhà đầu tư trên toàn cầu cùng với việc nền kinh tế Trung Quốc mở cửa trở lại đã thúc đẩy các Quỹ đầu cơ hàng hóa quay lại tăng mua.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 2,3 US cent tương đương 1,5% lên 1,517 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London tăng 35 USD tương đương 1,9% lên 1.916 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá cà phê robusta tăng 5%.
Theo các nhà quan sát, các thị trường cà phê kỳ hạn thế giới hai phiên liên tiếp vừa qua ghi nhận lực mua rất đáng kể; trong đó các quỹ hàng hóa mua bù cho khối lượng đã bán ròng khá mạnh trong suốt hai tuần trước đó do lo ngại rủi ro tăng cao khi mức lạm phát toàn cầu vẫn còn cao và nhiều nước sản xuất chính thu hoạch vụ mùa mới của niên vụ cà phê 2022/2023.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm bởi đồng JPY tăng mạnh, song có tuần tăng trong bối cảnh thị trường cao su Thượng Hải tăng, do kỳ vọng nền kinh tế hồi phục và nhu cầu tại nước mua hàng đầu – Trung Quốc – tăng mạnh.
Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Osaka giảm 2,3 JPY tương đương 1% xuống 223,7 JPY (1,73 USD)/kg. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá cao su tăng 1,3%; cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 75 CNY xuống 13.000 CNY (1.932 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn Singapore tăng 0,8% lên 136,8 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

 

ĐVT

Giá 6/1

Giá 13/1

13/1 so với 12/1

13/1 so với 12/1 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

73,77

79,86

+1,47

+1,88%

Dầu Brent

USD/thùng

78,57

85,28

+1,25

+1,49%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

59.670,00

62.610,00

+520,00

+0,84%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,71

3,42

-0,28

-7,47%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

224,46

253,28

+5,75

+2,32%

Dầu đốt

US cent/gallon

300,45

325,59

+3,69

+1,15%

Dầu khí

USD/tấn

880,25

932,75

+12,25

+1,33%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

78.500,00

78.500,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.869,70

1.921,70

+22,90

+1,21%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.905,00

7.885,00

+32,00

+0,41%

Bạc New York

USD/ounce

23,98

24,37

+0,37

+1,53%

Bạc TOCOM

JPY/g

98,60

98,60

+1,00

+1,02%

Bạch kim

USD/ounce

1.094,33

1.069,21

-1,78

-0,17%

Palađi

USD/ounce

1.811,93

1.792,81

-6,58

-0,37%

Đồng New York

US cent/lb

391,10

421,60

+1,95

+0,46%

Đồng LME

USD/tấn

8.589,50

9.185,50

-1,50

-0,02%

Nhôm LME

USD/tấn

2.295,50

2.595,00

+46,50

+1,82%

Kẽm LME

USD/tấn

3.023,50

3.324,00

+88,50

+2,74%

Thiếc LME

USD/tấn

25.270,00

28.756,00

+1.347,00

+4,91%

Ngô

US cent/bushel

654,00

675,00

+4,00

+0,60%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

743,50

743,75

+1,00

+0,13%

Lúa mạch

US cent/bushel

344,25

364,00

+2,75

+0,76%

Gạo thô

USD/cwt

17,77

18,15

+0,10

+0,53%

Đậu tương

US cent/bushel

1.492,50

1.527,75

+9,25

+0,61%

Khô đậu tương

USD/tấn

477,60

476,30

-5,00

-1,04%

Dầu đậu tương

US cent/lb

63,17

63,06

-0,19

-0,30%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

868,90

839,70

-1,30

-0,15%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.605,00

2.651,00

+11,00

+0,42%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

158,30

151,70

+2,30

+1,54%

Đường thô

US cent/lb

18,96

19,73

+0,14

+0,71%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

206,45

207,20

-0,20

-0,10%

Bông

US cent/lb

85,68

82,29

+0,25

+0,30%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

368,60

431,80

+11,60

+2,76%

Cao su TOCOM

JPY/kg

134,70

139,80

+1,20

+0,87%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)