Năng lượng: Dầu tăng tuần thứ 8 liên tiếp
Phiên cuối tuần, giá dầu tăng vượt mức 85 USD/thùng bởi dự báo thiếu hụt nguồn cung trong những tháng tới khi những biện pháp hạn chế chống Covid-19 được nới lỏng.
Kết thúc phiên này (15/10), giá dầu thô Brent kỳ hạn tháng 12 tăng 86 US cent hay 1% lên 84,86 USD/thùng, trong phiên có lúc giá chạm mức cao nhất kể từ tháng 10/2018 tại 85,1 USD/thùng, tính chung cả tuần tăng 3% và là tuần tăng thứ 6 liên tiếp. Dầu thô WTI kỳ hạn tháng 11 tăng 97 US cent hay 1,2% lên 82,28 USD/thùng, tăng 3,5% trong cả tuần và là tuần tăng thứ 8 liên tiếp.
Nhu cầu phục hồi từ đại dịch Covid-19, với các nhà máy điện quay sang mua dầu mazut và dầu diesel khi giá khí đốt và than đắt đỏ.
Trong khi đó, dự trữ dầu thô giảm mạnh tại Mỹ và các nước thành viên của OECD dự kiến khiến nguồn cung toàn cầu thắt chặt. Các công ty năng lượng Mỹ trong tuần này đã bổ sung các giàn khoan dầu và khí tự nhiên tuần thứ 6 liên tiếp do giá dầu thô tăng thúc đẩy các nhà khoan dầu trở lại. Số giàn khoan dầu và khí đốt của Mỹ, một chỉ số sớm cho sản lượng tương lai tăng 10 giàn lên 543 giàn trong tuần này, cao nhất kể từ tháng 4/2020, theo công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes.
Nhà Trắng cho biết họ sẽ dỡ bỏ những hạn chế đi lại đối với công dân nước ngoài được tiêm đầy đủ vaccine có hiệu lực từ ngày 8/11, điều này sẽ thúc đẩy nhu cầu nhiên liệu bay.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế cho biết khủng hoảng năng lượng dự kiến thúc đẩy nhu cầu dầu thêm 500.000 thùng/ngày, sẽ khiến thiếu hụt khoảng 700.000 thùng/ngày đến cuối năm nay, cho tới khi OPEC+ bổ sung thêm nguồn cung dự kiến trong tháng 1/2022.
Kim loại qúy: giá vàng trải qua một tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 5/2021
Phiên giao dịch cuối tuần (15/10), giá kết thúc chuỗi tăng, bất chấp đồng USD và lợi suất trái phiếu Mỹ đều giảm khỏi mức đỉnh của nhiều tháng.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay ổn định ở mức 1.794,09 USD/ounce. Trước đó, ngày 14/10, giá vàng này đã chạm đỉnh 1 tháng là 1.800,12 USD/ounce. Trong khi đó, giá vàng giao sau giảm 0,1%, xuống 1.795,50 USD/ounce.
Tính chung cả tuần, giá vàng tăng 2,1%. Dù mở đầu tuần với mức giảm và khép lại phiên cuối tuần không mấy tích cực, song sự suy yếu của đồng USD và lợi suất trái phiếu Mỹ vẫn giúp giá vàng ghi nhận tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 5/2021.
Các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương Mỹ vẫn có những chia rẽ về quan điểm lạm phát và hành động cần làm đối với nó.
Số người Mỹ lần đầu nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp giảm dưới 300.000 trong tuần trước, lần đầu tiên trong 19 tháng. Bộ Lao động Mỹ cho biết chỉ số giá sản xuất PPI cho nhu cầu cuối cùng tăng 0,5% trong tháng 9/2021, mức tăng thấp nhất trong chín tháng.Ủy ban chỉ đạo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày 14/10 kêu gọi các nhà hoạch định chính sách toàn cầu theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, tuy nhiên cho rằng áp lực lạm phát chỉ là nhất thời và sẽ mất dần khi các nền kinh tế bình thường hóa.
Cũng trong phiên này, giá bạc giao ngay giảm 0,4%, xuống 23,45 USD/ounce, song vẫn hướng tới tuần tăng giá mạnh nhất trong 7 tuần qua; giá bạch kim cũng giảm 0,1%, xuống 1.054,09 USD/ounce, trong khi palladium tăng 0,2%, 2.132,21 USD/ounce.
Nhà phân tích Edward Moya, tại công ty dịch vụ môi giới OANDA, có trụ sở tại Mỹ cho rằng, sự chi phối của đồng USD đối với giá vàng có thể kéo dài cho đến khi Fed chính thức thông báo thu hẹp quy mô chương trình nới lỏng tiền tệ.
Trong khi đó, Phillip Streible, chiến lược gia tại công ty dịch vụ tài chính Blue Line Futures có trụ sở tại Chicago (Mỹ), cho rằng vàng có thể nhận được hỗ trợ khi một số người lo ngại về tình trạng lạm phát vào thời điểm hiện nay.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng có tuần tăng mạnh nhất kể từ năm 2016
Phiên cuối tuần, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 2,6% lên 10.248 USD/tấn, tính chung cả tuần tăng gần 10%, gần mức cao kỷ lục tại 10.747,5 USD đã đạt được hồi tháng 5.
Giá đồng có tuần tăng mạnh nhất kể từ năm 2016 do giá năng lượng tăng đe dọa hạn chế nguồn cung tại một thời điểm khi dự trữ của sàn giao dịch đang ở đáy.
Trong khi đó, giá kẽm phiên này cũng tăng 7,8% lên 3.802,5 USD/tấn, trong phiên giá đã đạt 3.944 USD/tấn, cao nhất kể từ năm 2007. Trong tuần này giá tăng 20% sau khi tập đoàn Nyrstar cho biết họ sẽ cắt giảm sản lượng 50% tại 3 nhà máy luyện kẽm ở Châu Âu.
Chi phí năng lượng tăng nhanh chóng và tình trạng thiếu điện tại Trung Quốc đã buộc các nhà máy luyện kẽm và nhôm cắt giảm sản lượng, thúc đẩy giá của cả hai kim loại này lên mức cao nhất trong hơn một thập kỷ.
Khủng hoảng năng lượng tại Trung Quốc, nhà sản xuất và tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới ngày càng trầm trọng khi thời tiết lạnh giá ở nhiều nơi của nước này. Các nhà phân tích thuộc ANZ cho biết giá điện cao và tình trạng thiếu hụt sẽ ảnh hưởng tới nguồn cung nhiều hơn so với nhu cầu đối với các kim loại trong những tháng tới.
Giá quặng sắt Trung Quốc giảm 3 phiên thứ liên tiếp và tính chung cả tuần giảm tuần đầu tiên trong một tháng do triển vọng nhu cầu của Trung Quốc ảm đạm.
Phiên cuối tuần, quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 1% xuống 723,5 CNY (112,56 USD)/tấn. Tính chung cả tuần giảm 2,9%; quặng sắt kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch Singapore giảm 0,1% xuống 123,45 USD/tấn; quặng sắt giảm trái ngược với mức tăng kỷ lục của hai nguyên liệu sản xuất thép khác do lo ngại về nguồn cung.
Tập đoàn Rio Tinto đã giảm dự báo xuất khẩu của họ năm 2021, dự đoán tập đoàn này có thể mất vị trí là nhà sản xuất quặng sắt lớn nhất thế giới vào tay đối thủ Vale S.A của Brazil.
Triển vọng nhu cầu thép của Trung Quốc giảm và nỗ lực tăng cường loại bỏ carbon tại nhà sản xuất thép lớn nhất thế giới thông qua các hạn chế sản lượng đã tác động nặng nề lên tâm lý.
Hiện nay nhu cầu thép của Trung Quốc được dự báo giảm 1% trong năm nay thay vì tăng 3%, theo Hiệp hội Thép Thế giới.
Theo công ty tư vấn SteelHome, giá quặng sắt giao ngay giảm gần 50% từ mức đỉnh hồi giữa tháng 5, với tồn kho nguyên liệu nhập khẩu tại các cảng của Trung Quốc đang tăng cũng khẳng định nhu cầu ảm đạm.
Nông sản: Giá ngô, đậu tương và đường tuần qua giảm
Giá các mặt hàng nông sản giao dịch kỳ hạn trên sàn CBOT đều tăng trong phiên ngày 15/10, dẫn dầu là ngô.
Giá ngô và đậu tương tại Chicago tăng trong phiên này do việc mua vào theo chỉ số kỹ thuật và những hy vọng mới về nhu cầu, trong khi giá lúa mì tăng bởi sự phục hồi trên thị trường Châu Âu.
Hợp đồng đậu tương trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) đóng cửa tăng 11-1/2 US cent lên 12,17-3/4 USD/bushel, tuy nhiên tính chung cả tuần giá giảm tuần thứ 3 liên tiếp sau các dự báo của USDA cho rằng nguồn cung cao hơn dự kiến.
Trong khi đó, giá ngô tăng 9 US cent lên 5,25-3/4 USD/bushel; lúa mì tăng 9-1/4 US cent lên 7,34 USD/bushel.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) thông báo Trung Quốc đã đặt thêm 132.700 tấn đậu tương Mỹ, với 396.000 tấn đến một nguồn chưa xác định. Tổng cộng, hơn 1,6 triệu tấn đậu tương Mỹ và hơn 1,2 triệu tấn ngô Mỹ đã được bán trong tuần qua, mức cao nhất kể từ đầu mùa Xuân.
Khối lượng xuất khẩu hàng tuần của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 7/10 ở mức 20,9 triệu bushel lúa mỳ, 40,9 triệu bushel ngô và 42,2 triệu bushel đậu tương.
Đường thô kỳ hạn tháng 3 đóng cửa phiên cuối tuần tăng 0,21 US cent hay 1,1% đạt 19,8 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 7,1 USD hay 1,4% lên 520 USD/tấn.
Trung tâm Dự báo Khí hậu Mỹ cho biết các điều kiện của thời tiết La Nina đã phát triển và dự kiến sẽ tiếp tục vào mùa đông. Việc phát triển La Nina không đảm bảo mía của Brazil sẽ bị thiệt hại, nhưng nó cũng có thể mang lại nhiều mưa cho Ấn Độ và Thái Lan.
Gía cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa phiên cuối tuần giảm 5,85 US cent hay 2,8% xuống 2,034 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1 giảm 24 USD hay 1,1% xuống 2.121 USD/tấn.
Báo cáo các vùng cà phê ở miền Nam Brazil đã có mưa dồi dào trong tuần này và dự báo sẽ nhiều mưa trong tuần tới, điều này có thể làm tăng triển vọng vụ năm tới.
Giá cao su Nhật Bản tăng trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần tăng tuần thứ 3 tăng liên tiếp bởi đồng JPY suy yếu so với USD trong khi thị trường chứng khoán Tokyo mạnh lên cũng thúc đẩy nhu cầu tài sản rủi ro.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 2,5 JPY, hay 1,1% lên 226,5 JPY/kg. Tính chung cả tuần hợp đồng này tăng 2,5%. Cao su kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 190 CNY hay 1,3% lên 14.750 CNY (2.293 USD)/tấn. Dự trữ cao su tại các kho của sàn giao dịch Thượng Hải tăng 1,1% so với một tuần trước.
Giá hàng hóa thế giới tuần qua

 

ĐVT

Giá 8/10

Giá 5/10

Giá 15/10 so với 14/10

Giá 15/10 so với 14/10 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

79,35

82,28

+0,97

+1,19%

Dầu Brent

USD/thùng

82,39

84,86

+0,86

+1,02%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

50.080,00

52.600,00

+10,00

+0,02%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

5,57

5,41

-0,28

-4,87%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

236,62

248,64

+5,14

+2,11%

Dầu đốt

US cent/gallon

247,37

257,37

+1,23

+0,48%

Dầu khí

USD/tấn

716,75

746,75

+19,25

+2,65%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

69.900,00

75.070,00

+270,00

+0,36%

Vàng New York

USD/ounce

1.757,40

1.768,30

-29,60

-1,65%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.329,00

6.482,00

-80,00

-1,22%

Bạc New York

USD/ounce

22,71

23,35

-0,13

-0,55%

Bạc TOCOM

JPY/g

82,60

85,40

-1,10

-1,27%

Bạch kim

USD/ounce

1.028,59

1.058,64

-0,87

-0,08%

Palađi

USD/ounce

2.079,17

2.078,21

-54,98

-2,58%

Đồng New York

US cent/lb

427,55

472,95

+9,80

+2,12%

Đồng LME

USD/tấn

9.361,00

10.281,00

+297,00

+2,97%

Nhôm LME

USD/tấn

2.966,00

3.171,50

+54,50

+1,75%

Kẽm LME

USD/tấn

3.151,00

3.794,50

+266,00

+7,54%

Thiếc LME

USD/tấn

36.156,00

37.200,00

+277,00

+0,75%

Ngô

US cent/bushel

530,50

525,75

+9,00

+1,74%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

734,00

734,00

+9,25

+1,28%

Lúa mạch

US cent/bushel

653,75

660,25

+25,00

+3,94%

Gạo thô

USD/cwt

13,74

13,86

-0,01

-0,11%

Đậu tương

US cent/bushel

1.243,00

1.217,75

+11,50

+0,95%

Khô đậu tương

USD/tấn

318,70

316,60

+2,50

+0,80%

Dầu đậu tương

US cent/lb

61,51

61,29

+0,85

+1,41%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

915,70

907,10

+4,00

+0,44%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.750,00

2.607,00

+23,00

+0,89%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

201,35

203,40

-5,85

-2,80%

Đường thô

US cent/lb

20,29

19,80

+0,21

+1,07%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

128,50

123,65

-1,90

-1,51%

Bông

US cent/lb

110,60

107,33

+0,23

+0,21%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

720,80

759,90

-12,10

-1,57%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,50

174,00

+2,10

+1,22%

Ethanol CME

USD/gallon

2,21

2,21

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet / VITIC