Lần đầu tiên, thông qua RCEP, các nước G20 ở Đông Bắc Á - Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc - được liên kết trong một thỏa thuận thương mại. RCEP ghi nhận vai trò trọng tâm về quy tắc nền tảng của cộng đồng ASEAN đối với thỏa thuận do ASEAN chủ động và dẫn đầu. Động cơ ban đầu của RCEP là củng cố các khuôn khổ “Hiệp định Thương mại tự do ASEAN + 1” hiện có bằng cách kết hợp tất cả các bên liên quan theo một thỏa thuận. Do đó, RCEP không được coi là một hiệp định thương mại sâu sắc và đầy tham vọng.

Các tiêu chuẩn đã được thống nhất - ví dụ về quyền sở hữu trí tuệ, dịch vụ, đầu tư và di chuyển tự do của con người liên quan đến thương mại có phần hạn chế. Tuy nhiên, chính mức độ tham vọng thấp này đã làm cho RCEP trở nên khả thi khi bao gồm các nước đang phát triển, những nước được áp dụng các giai đoạn chuyển đổi kéo dài và các điều chỉnh khác biệt. Cách tiếp cận này phù hợp với nguyện vọng và mục tiêu mà ASEAN theo đuổi, cụ thể là đoàn kết các quốc gia trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong một khu vực thương mại và đầu tư rộng lớn, cởi mở, thúc đẩy hội nhập kinh tế, tăng trưởng và phát triển đồng thời hội nhập các nước kém phát triển hơn và chống lại các khuynh hướng chia rẽ được nhận thức trong Sáng kiến Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trước đây.

Việc ký kết thỏa thuận không đánh dấu sự kết thúc của các cuộc đàm phán. RCEP sẽ được các nước thứ ba, đặc biệt là Ấn Độ, mở cửa cho việc gia nhập vào thời điểm cuối cùng. Việc phát triển thêm nội dung của thỏa thuận cũng được lên kế hoạch. Điều này có thể xảy ra, như đã biết từ kinh nghiệm trước đây rằng các thỏa thuận thương mại ASEAN bắt đầu hạn chế, nhưng sau đó sẽ được cải thiện và hiện đại hóa một cách thành công. Một ban thư ký RCEP sẽ đảm bảo rằng hiệp định liên tục được điều chỉnh và phát triển.
Về chính sách thương mại, tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại hàng hóa là trọng tâm của hiệp định. Khi có hiệu lực, 65% thương mại nội bộ của RCEP được miễn thuế và sau 20 năm, con số này ít nhất phải là 92%. Tuy nhiên, tự do hóa không đồng nhất. Khoảng một nửa số quốc gia áp dụng các mức thuế quan khác nhau, tùy thuộc vào đối tác thương mại RCEP. Ngoài ra, các biểu thuế hải quan khác nhau sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, thủ tục hải quan sẽ đơn giản hơn nhiều. Ví dụ, một tài liệu duy nhất bao gồm một số công đoạn chế biến và cửa khẩu biên giới sẽ đủ để chứng minh xuất xứ của hàng hóa. Tài liệu về dữ liệu đi kèm với thương mại sẽ có thể được thực hiện tập trung, trong các cơ quan thành viên RCEP.
Việc cắt giảm thuế quan được nêu trong hiệp định chủ yếu liên quan đến các mặt hàng công nghiệp, ít nông nghiệp hơn. Trong khi các nước ASEAN hầu như không giảm thuế quan song phương vốn đã thấp, thì việc cắt giảm thuế quan của Trung Quốc (và ở mức độ thấp hơn là Hàn Quốc) đối với Nhật Bản là khá đáng kể. Một yếu tố thúc đẩy thương mại to lớn được nhìn thấy trong việc áp dụng thống nhất các quy tắc xuất xứ tương đối dễ xử lý của ASEAN, đóng vai trò là bằng chứng cho thấy chỉ hàng hóa từ khu vực mậu dịch tự do RCEP, chứ không phải từ các nước thứ ba, được hưởng lợi từ sự miễn trừ thuế quan.
Theo quy định, tỷ lệ giá trị gia tăng tối thiểu trên cơ sở giá FOB được đặt ở mức khiêm tốn 40%, có nghĩa là tỷ lệ tối đa đối với nguồn cung từ các nước thứ ba là 60%. Theo dự báo của Euler Hermes, hài hòa các yêu cầu thông tin và thiết lập giá trị gia tăng tối thiểu thống nhất sẽ tiết kiệm 90 tỷ USD chi phí mỗi năm trong thương mại hàng hóa trong RCEP. Các nhà kinh tế Mỹ Peter Petri và Michael Plummer ước tính rằng, thương mại RCEP sẽ tăng 500 tỷ USD mỗi năm sau khi thực hiện hiệp định và thu nhập liên quan đến thương mại sẽ lên tới 186 tỷ USD mỗi năm, trong đó Trung Quốc chiếm khoảng một nửa trong số này và Nhật Bản chỉ dưới một phần tư.
Theo đó, Bắc Á sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ việc cắt giảm thuế quan so với Đông Nam Á, Australia và New Zealand. Có hai lý do cho điều này: thứ nhất, Đông Bắc Á là nơi tiếp đón các nền kinh tế lớn hơn về mặt tuyệt đối, và thứ hai, Trung Quốc và Hàn Quốc đang cắt giảm thuế quan nhiều nhất. Đồng thời, lợi nhuận thương mại được bù đắp bởi sự khác biệt trong thương mại. Do đó, từ một góc độ năng động, việc tăng cường liên kết thương mại và đầu tư trong khu vực RCEP tác động ngược chiều cho dòng chảy đầu tư và thương mại xuyên Thái Bình Dương và Á-Âu, ngay cả khi các chi nhánh châu Á của các công ty châu Âu hoặc châu Mỹ được hưởng lợi từ việc tạo thuận lợi và tự do hóa thương mại hàng hóa giống như các doanh nghiệp địa phương.
Có thể còn quan trọng hơn những ảnh hưởng trực tiếp đối với thương mại là tác động của hiệp định về đầu tư và cấu hình của chuỗi giá trị. Sự kết hợp giữa thuế quan giảm, thương mại xuyên biên giới được tạo thuận lợi và các quy tắc xuất xứ hạn chế sẽ kích hoạt tái tổ chức chuỗi cung ứng. Điều này càng đúng khi Trung Quốc - một nhà sản xuất lớn - đã phải chịu áp lực do chi phí và thuế quan trừng phạt của Mỹ trong khi Bắc Kinh theo đuổi chính sách nâng cấp kinh tế và công nghệ. Các nước nghèo hơn ở Đông Nam Á - bao gồm Campuchia, Myanmar, Indonesia và Philippines - có thể được hưởng lợi từ điều này, vì các điểm đầu tư này hiện phải đáp ứng các tiêu chuẩn RCEP mới và đã được thống nhất.

Nguồn: Việt Dũng/congthuong.vn