Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khá mạnh sau thông tin nhu cầu năng lượng tăng cao ở Trung Quốc, mặc dù Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho hay các nước sản xuất hàng đầu của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) tăng sản lượng khai thác.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 8/2017 đã tăng 0,59 USD lên 46,08 USD/thùng, dầu Brent giao tháng 9/2017 cũng tăng 0,68 USD (1,42%) lên 48,42 USD/thùng.
IEA dự báo triển vọng nhu cầu dầu mỏ trên toàn cầu tăng cao, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ năng lượng tại Trung Quốc, Đức và Mỹ tăng cao những tháng gần đây.
Theo IEA, mức tăng trưởng nhu cầu dầu thế giới trong năm 2017 dự kiến là 1,4 triệu thùng/ngày. Như vậy, tổng nhu cầu dầu thế giới dự kiến đạt 98 triệu thùng/ngày trong năm 2017 và 99,4 triệu thùng/ngày năm 2018.
Nhằm giảm bớt tình trạng dư cung cầu thế giới và hỗ trợ giá “vàng đen”, các quốc gia thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã nhất trí cắt giảm sản lượng từ đầu năm nay, trong khi các nước sản xuất dầu ngoài khối, do Nga dẫn đầu, cũng tham gia thỏa thuận này.
Tuy vậy, một số nhà quan sát cảm thấy cái gọi là “tái cân bằng” thị trường dầu đang cần quá nhiều thời gian để có thể trở thành hiện thực.
IEA lưu ý rằng trong tháng 6/2017, mức độ tuân thủ thỏa thuận cắt giảm sản lượng của 10 nước sản xuất dầu ngoài OPEC đã cải thiện và thậm chí cao hơn mức độ tuân thủ của các nước OPEC. Sản lượng dầu của OPEC tăng lên 32,61 triệu thùng/ngày trong tháng 6/2017 từ mức 32,21 triệu thùng/ngày trong tháng 5/2017.
Theo kế hoạch, các nước sản xuất dầu sẽ có cuộc họp vào ngày 24/7 tới tại Saint Petersburg (Nga) để đánh giá tình hình sản xuất dầu mỏ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm nhẹ trong bối cảnh đồng USD và thị trường chứng khoán toàn cầu nhích lên.
Giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.218,59 USD/ounce, vẫn cách khá xa so với mức thấp nhất của 4 tháng là 1.204,45 USD/ounce được ghi nhận trước đó; vàng Mỹ giao tháng 8/2017 giảm 1,8 USD (hay 0,15%) xuống 1.217,30 USD/ounce.
Lãi suất trái phiếu hạ làm giảm chi phí cơ hội cho việc mua vàng, trong khi đồng USD yếu khiến vàng rẻ hơn cho các nhà đầu tư ở các nước ngoài Mỹ.
Phát biểu trong phiên điều trần trước Quốc hội hôm 12/7, Chủ tịch Fed Janet Yellen nói rằng “thể trạng” của nền kinh tế Mỹ đủ tốt để Fed nâng lãi suất từng bước, dù lạm phát thấp có thể khiến thể chế tài chính này cần cân nhắc.
Chỉ số MSCI thế giới đã chạm mức cao kỷ lục lần thứ tư trong chưa đầy một tháng do các nhà đầu tư coi những phát biểu của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Janet Yellen là “tín hiệu” để tìm đến tài sản có tính rủi ro. Eli Tesfaye, chiến lược gia về thị trường thuộc công ty môi giới RJO Futures tại Chicago, cho hay giá vàng có thể “sẽ được thử thách” ở ngưỡng hỗ trợ là 1.200 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giao tháng 10 có lúc lên mức 14,18 US cents/lb, và kết thúc tăng 0,65 US cent tương đương 4,82% lên 14,14 US cent, mức tăng mạnh nhất kể từ 29/6. Đường trắng giao tháng 8 giá tăng 11,80 USD tương đương 2,9% lên 418,20 USD/tấn.
Cà phê cũng tăng giá, với arabica giao tháng 9 giá tăng 3,6 US cent tương đương 2,82% lên 1,3185 USD/lb, đường trắng giao tháng 9 giá tăng 48 USD tương đương 2,29% lên 2.145 USD/tấn. Mức trừ lùi của cà phê Việt Nam đã giảm xuống 10 USD từ mức 20 USD tuần trước.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
46,08
|
+0,59
|
+0,13%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
48,42
|
+0,68
|
+1,42%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
34.190,00
|
+490,00
|
+1,45%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,97
|
+0,01
|
+0,27%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
152,59
|
-0,02
|
-0,01%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
149,00
|
-0,17
|
-0,11%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
442,25
|
-1,00
|
-0,23%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
49.960,00
|
+440,00
|
+0,89%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.214,90
|
-2,40
|
-0,20%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.433,00
|
-5,00
|
-0,11%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,59
|
-0,11
|
-0,68%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
57,30
|
-0,90
|
-1,55%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
905,33
|
-0,43
|
-0,05%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
858,61
|
+0,36
|
+0,04%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
266,85
|
+0,70
|
+0,26%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.876,00
|
-29,00
|
-0,49%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.923,00
|
+34,00
|
+1,80%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.803,50
|
-29,50
|
-1,04%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.805,00
|
-95,00
|
-0,48%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
371,25
|
+1,50
|
+0,41%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
516,25
|
+4,50
|
+0,88%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
281,75
|
+3,00
|
+1,08%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,70
|
-0,05
|
-0,47%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
985,75
|
-1,75
|
-0,18%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
325,20
|
+0,10
|
+0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,36
|
-0,14
|
-0,42%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
498,90
|
-3,60
|
-0,72%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.872,00
|
+51,00
|
+2,80%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
131,20
|
+3,60
|
+2,82%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,14
|
+0,65
|
+4,82%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
128,95
|
+0,15
|
+0,12%
|
Bông
|
US cent/lb
|
66,32
|
-0,05
|
-0,08%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
367,40
|
-3,80
|
-1,02%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
199,70
|
-0,20
|
-0,10%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,51
|
-0,04
|
-2,45%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg