Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do các nhà đầu tư vẫn lo ngại về tình trạng dư dôi nguồn cung toàn cầu.
Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 8/2017 giảm 0,33 USD, xuống 46,79 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 9/2017 cũng giảm 0,4 USD, xuống 49,30 USD/thùng tại London.
Các nhà giao dịch cho biết sự gia tăng sản lượng dầu mỏ của Mỹ cũng như một số quốc gia thành viên OPEC đang ngăn cản đà đi lên của giá dầu. Hiện dự trữ dầu thô của Mỹ vẫn trên 490 triệu thùng, cao hơn mức trung bình 401 triệu thùng trong 5 năm qua.
Các nhà đầu tư nhận định giá dầu mỏ thế giới có thể sẽ giữ ở gần mức như hiện nay cho đến cuộc họp đầu tuần tới của các thành viên trong và ngoài Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) tại St. Petersburg, Nga. Thị trường đang theo dõi thông tin về việc Saudi Arabia, nước sản xuất dầu thô lớn nhất thế giới, đang cân nhắc phương án cắt giảm thêm nguồn cung dầu.
Năm ngoái, các thành viên trong và ngoài OPEC, trong đó có Nga, đã đồng ý cắt giảm sản lượng khai thác 1,8 triệu thùng dầu/ngày và thỏa thuận này được kéo dài đến tháng 3/2018.
Trước đó, Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu thô dự trữ của Mỹ đã giảm 4,7 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 14/7. Hiện dự trữ dầu thô của Mỹ ở mức khoảng 490 triệu thùng, cao hơn mức trung bình 401 triệu thùng trong 5 năm qua. Ngoài ra, sản lượng khai thác dầu thô của Mỹ tăng khoảng 12% kể từ giữa năm 2016, lên mức 9,4 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng lên mức cao kỷ lục 3 tuần trong bối cảnh đồng euro lên mức cao nhất trong 14 tháng.
Tại Mỹ, giá vàng giao ngay có thời điểm vọt lên 1.247,48 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 30/6/2017. Trong khi đó, giá vàng giao tháng 8 tăng 0,3% lên 1.245,50 USD/ounce.
Sau cuộc họp ngày 20/7, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Mario Draghi cho biết các nhà hoạch định chính sách ngân hàng này sẽ thảo luận về những thay đổi trong chương trình mua trái phiếu vào mùa Thu. Các nhà phân tích nhận định phát biểu trên của ông Draghi đã khiến đồng euro lên giá, trong khi chỉ số USD giảm xuống mức thấp nhất trong 11 tháng. Đây được coi là nhân tố tạo đà đi lên cho giá vàng trong phiên này.
Bên cạnh đó, theo một số chuyên gia phân tích, giá vàng còn được hỗ trợ bởi những thông tin xung quanh cuộc điều tra với sự giám sát của công tố viên đặc biệt Robert Mueller đối với cáo buộc Nga can thiệp cuộc bầu cử Mỹ năm 2016 cũng như sự liên hệ của đội ngũ tranh cử của ông Donald Trump với vụ việc này.
Trên thị trường nông sản, giá đường và cà phê arabica đều giảm.
Đường thô giao tháng 10 giá giảm 0,09 US cent tương đương 0,62% xuống 14,41 US cent/lb, sau khi có lúc đạt 14,63 US cent, cao nhất kể từ ngày 1/6. Đường trắng giao tháng 10 giảm 3,10 USD tương đương 0,80 US cent xuống 395,50 USD/tấn.
Cà phê robusta tăng 3 USD tương đương 0,1% lên 2.113 USD/tấn, trong khi arabica giao tháng 9 giảm 0,8 US cent tương đương 0,6% xuống 1,35 USD/lb.
Mưa ở miền Trung Tây Nguyên (Việt Nam) cung cấp đủ nước cho vụ mùa này, hứa hẹn sẽ bội thu. Cà phê sẽ cho thu hoạch vào cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
46,79
|
-0,33
|
-0,88%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
49,30
|
-0,4
|
-0,68%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
34.520,00
|
+550,00
|
+1,62%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,07
|
+0,01
|
+0,23%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
161,62
|
-0,07
|
-0,04%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
155,16
|
+0,02
|
+0,01%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
458,50
|
+2,50
|
+0,55%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
50.160,00
|
+440,00
|
+0,88%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.244,30
|
+1,20
|
+0,10%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.471,00
|
+14,00
|
+0,31%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,32
|
-0,02
|
-0,15%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,00
|
+0,10
|
+0,17%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
926,66
|
-0,81
|
-0,09%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
847,09
|
-1,18
|
-0,14%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
271,70
|
+0,10
|
+0,04%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.958,50
|
-8,00
|
-0,13%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.917,00
|
-3,00
|
-0,16%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.727,00
|
-20,00
|
-0,73%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.075,00
|
-20,00
|
-0,10%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
389,75
|
-1,25
|
-0,32%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
505,00
|
-0,75
|
-0,15%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
295,25
|
-2,25
|
-0,76%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,01
|
+0,01
|
+0,04%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.023,00
|
-4,00
|
-0,39%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
337,10
|
-1,00
|
-0,30%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
34,29
|
-0,16
|
-0,46%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
510,10
|
-0,30
|
-0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
1.956,00
|
+12,00
|
+0,62%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
135,00
|
-0,80
|
-0,59%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,41
|
-0,09
|
-0,62%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
125,80
|
+0,30
|
+0,24%
|
Bông
|
US cent/lb
|
69,10
|
+0,12
|
+0,17%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
388,60
|
-0,20
|
-0,05%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
211,10
|
-5,10
|
-2,36%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,55
|
+0,01
|
+0,65%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg