Năng lượng: Giá dầu thô Brent đạt mức cao nhất kể từ tháng 4, duy trì trên mức 87 USD/thùng, sau khi dữ liệu ngày hôm trước cho thấy tồn trữ dầu thô ở Mỹ giảm.
Dầu thô Brent kỳ hạn tham chiếu kết thúc phiên tăng 21 cent, tương đương 0,2%, lên 87,55 USD/thùng; dầu WTI của Mỹ tăng 18 US cent lên 84,06 USD trong sự giao dịch thưa thớt do Mỹ nghỉ ngày Lễ Độc lập.
Trong phiên trước đó, giá dầu Brent đã tăng 1,3% lên 87,34 USD, mức đóng cửa ở mức cao nhất kể từ ngày 30 tháng 4. Trong khi đó, dầu WTI ổn định ở mức cao nhất 11 tuần, là 83,88 USD. Lý do bởi tồn trữ dầu thô của Mỹ giảm mạnh hơn dự kiến.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) báo cáo tồn trữ giảm 12,2 triệu. Các nhà phân tích được Reuters thăm dò dự đoán mức giảm chỉ là 680.000 thùng.
Nhà phân tích Martin King của RBN Energy cho biết các nhà giao dịch cũng đang theo dõi cuộc chiến ở dải Gaza và các cuộc bầu cử ở Pháp và Anh.
Ông King nói: “Thương mại trầm lắng và mọi người đang theo dõi thị trường hàng thực cũng như tình hình địa chính trị”.
Nhà phân tích Tamas Varga của PVM cho biết giá dầu lúc đầu phiên vừa qua đã giảm 83 cent, nhưng mức giảm này dự kiến sẽ không kéo dài do đồng đô la yếu đi và triển vọng sáng nhu cầu nhiên liệu của Mỹ tốt lên sau dữ liệu của EIA.
Tuy nhiên, các đơn đặt hàng công nghiệp của Đức bất ngờ giảm trong tháng 5, thêm vào những dấu hiệu cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế lớn nhất châu Âu vẫn khó khăn.
Mối lo ngại về nhu cầu đã tăng cao do dữ liệu của Mỹ hôm thứ Tư cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu của Mỹ đã tăng trong tuần trước trong khi số người thất nghiệp cũng tăng.
Ngược lại, dữ liệu kinh tế yếu mới có thể đẩy nhanh việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất - điều có thể hỗ trợ cho thị trường dầu mỏ.
Reuters hôm thứ Năm đưa tin các nhà sản xuất dầu của Nga Rosneft và Lukoil LKOH.MM sẽ cắt giảm mạnh xuất khẩu dầu từ cảng Novorossiisk ở Biển Đen vào tháng 7.
Trong khi đó, Saudi Aramco của Saudi Arabia đã giảm giá loại dầu thô nhẹ Ả rập chủ chốt mà họ sẽ bán sang châu Á vào tháng 8 xuống còn 1,80 USD/thùng, cao hơn mức giá dầu Oman/Dubai trung bình.
Khả năng giảm giá ở châu Á, chiếm khoảng 80% lượng dầu xuất khẩu của Saudi, nhấn mạnh áp lực mà các nhà sản xuất OPEC phải đối mặt khi nguồn cung ngoài OPEC tiếp tục tăng trong khi nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với những cơn gió ngược.
Ngân hàng Thụy Sĩ UBS dự kiến dầu thô Brent sẽ đạt 90 USD/thùng trong quý này, trên cơ sở OPEC+ cắt giảm sản lượng và dự kiến tồn kho dầu giảm.
Kim loại quý: Giá vàng ổn định gần mức cao nhất hai tuần sau khi dữ liệu kinh tế Mỹ chậm lại dự kiến làm tăng hy vọng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào đầu tháng 9, và tâm điểm chú ý của thị trường hiện giờ là bảng lương trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ công bố vào thứ Sáu (5/7).
Vàng giao ngay cuối phiên tăng 0,1% lên 2.358,19 USD/ounce, sau khi giá đạt mức cao nhất kể từ ngày 21 tháng 6 vào thứ Tư. Hầu hết các thị trường Mỹ đều đóng cửa nghỉ lễ Ngày Độc lập vào thứ Năm.
Giá vàng thỏi trong phiên trước đã tăng hơn 1% sau khi báo cáo lĩnh vực dịch vụ và báo cáo việc làm ADP hôm thứ Tư thể hiện sự yếu kém, cho thấy nền kinh tế Mỹ đang chậm lại.
Alex Ebkarian, giám đốc điều hành tại Allegiance Gold, cho biết: “Có vẻ như rất có khả năng việc cắt giảm lãi suất có thể xảy ra vào thời điểm nào đó vào cuối quý 3 hoặc đầu quý 4, điều này chỉ khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn rất nhiều so với trái phiếu”.
Lãi suất hạ sẽ làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng không sinh lời.
Biên bản cuộc họp tháng 6 của Fed thừa nhận nền kinh tế Mỹ dường như đang chậm lại và “áp lực giá đang giảm dần”.
Ông Ebkarian nói thêm: “Về lâu dài, chúng tôi thấy các biện pháp trừng phạt mà Mỹ áp đặt (đối với Nga) đã khiến nhiều ngân hàng trung ương và các chính phủ khác hướng tới vàng, đặc biệt là để loại bỏ rủi ro liên quan đến đối tác và rủi ro vỡ nợ”.
Các nhà giao dịch hiện đang tập trung vào dữ liệu số lượng việc làm mới trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ. Ole Hansen, người phụ trách mảng chiến lược hàng hóa tại Ngân hàng Saxo, cho biết thị trường đang dự đoán số lượng việc làm mới ở Mỹ trong tháng 6 ít hơn so với tháng 5.
Ông Hansen nói thêm: “Cùng với việc giảm bớt áp lực tiền lương, thị trường kim loại quý có thể sẽ phản ứng tích cực nếu những con số này được xác nhận”.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,2% xuống 30,409 USD trong khi bạch kim tăng 1,6% lên 1.012,50 USD. Giá Palladium giảm 0,5% xuống 1.024,66 USD, sau khi đạt mức cao nhất kể từ giữa tháng 4 trong phiên trước.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng ổn định vào thứ Năm khi các nhà đầu tư cân bằng 2 yếu tố: sự lạc quan về khả năng Mỹ cắt giảm lãi suất và mối lo ngại về hàng tồn kho cao và nhu cầu mờ nhạt ở Trung Quốc.
Đồng kỳ hạn ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) kết thúc phiên tăng 0,1% lên 9.878 USD/tấn. Giá đã tăng 2% trong phiên trước đó, mức tăng hàng ngày lớn nhất kể từ ngày 6 tháng 6, nhưng nếu so với mức cao kỷ lục 11.104,50 USD vào ngày 20 tháng 5 thì giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên LME hiện giảm 11%.
Hợp đồng đồng đồng kỳ hạn tháng 8 trên sàn Comex tăng 0,8% lên 4,57 USD/lb.
Ole Hansen, người phụ trách bộ phận chiến lược hàng hóa tại Ngân hàng Saxo ở Copenhagen, cho biết: “Có vẻ như trọng tâm chú ý của thị trường một lần nữa lại chuyển sang khả năng Mỹ cắt giảm lãi suất”.
Chứng khoán toàn cầu đạt nhiều mức cao kỷ lục n sau khi Mỹ công bố dữ liệu về khả năng Cục Dự trữ Liên bang sẽ cắt giảm lãi suất trong tháng 9 và khiến chỉ số đồng USD giảm.
Đồng tiền Mỹ yếu khiến hàng hóa định giá bằng đồng đô la trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Tuy nhiên, một đợt phục hồi mới không chỉ đòi hỏi lãi suất thấp mà còn cần nhu cầu tăng và tồn trữ giảm, ông Hansen cho biết và thêm rằng những người tham gia thị trường hiện giữ thái độ chờ đợi và quan sát.
Ông nói thêm, bất kỳ khi nào giá đồng tiền gần với mức tâm lý 10.000 USD sẽ có khả năng tạo ra hoạt động chốt lời cho đến khi các yếu tố cơ bản được cải thiện.
Tồn kho đồng trên sàn LME đã tăng 80% kể từ giữa tháng 5 lên 186.275 tấn. Tồn kho tại các kho của Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đã giảm nhẹ trong những tuần gần đây nhưng vẫn gấp 10 lần mức hồi đầu năm.
Giá kẽm trên sàn LME phiên này giảm 0,1% xuống 2.988,50 USD/tấn sau khi chạm mức cao nhất trong 5 tuần trước đó. Kim loại chủ yếu được sử dụng để mạ thép này được hỗ trợ bởi xu hướng tăng giá trên thị trường kim loại đen, nơi quặng sắt đạt mức cao nhất trong một tháng.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME giảm 0,8% xuống 2.527 USD/tấn, niken giảm 0,3% xuống 17.265 USD, thiếc giảm 0,3% xuống 33.260 USD trong khi chì tăng 0,2% lên 2.227 USD.
Giá quặng sắt tăng phiên thứ 5 liên tiếp, lấy lại gần như những gì đã mất trong tháng 6 nhờ nhu cầu ngắn hạn mạnh mẽ, các yếu tố cơ bản về thép được cải thiện, đồng USD giảm và hy vọng về việc Trung Quốc sẽ gia tăng kích thích kinh tế.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên tăng gần 1,8% lên 864,5 nhân dân tệ (118,89 USD)/tấn.
Trong phiên, giá có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 31 tháng 5, là 870 nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 8 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 0,3% lên 113,75 USD/tấn, , mức cao nhất kể từ ngày 3 tháng 6.
Các nhà phân tích tại Jinrui Futures cho biết: “Sản lượng kim loại nóng ở mức tương đối cao, mặc dù có dấu hiệu chạm trần, đã củng cố nhu cầu quặng trong thời gian tới”.
Họ nói thêm: “Ngoài ra, việc tăng cường vận chuyển quặng sắt theo mùa để đáp ứng các mục tiêu hàng quý có thể sẽ chấm dứt”.
Hỗ trợ giá giá thép còn có một yếu tố nữa là kỳ vọng dai dẳng về việc có thêm nhiều biện pháp kích thích ở Trung Quốc vào cuối tháng này.
Các nhà phân tích của ANZ cho biết: “Bối cảnh kinh tế vĩ mô ổn định ở Trung Quốc đã cung cấp sự hỗ trợ rất cần thiết cho thị trường”.
“Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX sắp tới, vào ngày 15-18 tháng 7 sẽ rất quan trọng vì nhiều biện pháp kích thích có thể sẽ được công bố để củng cố lĩnh vực bất động sản.”
Ngoài ra, các yếu tố cơ bản của thép xây dựng được cải thiện, cùng với nhu cầu tăng và lượng hàng tồn kho tiếp tục giảm, cũng thúc đẩy tâm lý chung, các nhà phân tích tại Huatai Futures cho biết.
Giá thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đồng loạt tăng: Thép cây tăng 0,9%, thép cuộn cán nóng tăng gần 0,6%, thép thanh tăng 0,1% và thép không gỉ tăng 0,3%.
Nông sản: Sàn Chicago đóng cửa nghỉ Lễ Quốc khánh nên trong phiên vừa qua chỉ có giá ở các sàn khác.
Giá lúa mì trên thị trường châu Âu đảo chiều tăng sau khi giảm mạnh ở phiên trước, nhưng khối lượng giao dịch thấp. Lúa mì xay xát kỳ hạn tháng 9 trên sàn Euronext, trụ sở ở Paris, kết thúc phiên tăng 0,8% lên225 euro một tấn.
Cơ quan ngũ cốc nhà nước Tunisia được cho là đã mua khoảng 100.000 tấn lúa mì mềm trong cuộc đấu thầu hôm thứ Năm với giá 244,77 USD/tấn (c&f) cho lô 50.000 tấn, 247,94 USD/tấn c&f cho lô 25.000 tấn và 248,50 USD/tấn c&f cho lô 25.000 tấn khác. .
Cơ quan dự báo thời tiết Trung Quốc cảnh báo đợt nắng nóng kéo dài trong tháng 7 ở các khu vực miền đông, miền trung và miền nam nước này có thể ảnh hưởng đến năng suất lúa, bông và các loại cây trồng khác trong bối cảnh thời tiết khắc nghiệt tiếp tục đe dọa sản xuất lương thực.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 1,3%, kết thúc ở mức 583,20 USD/tấn. Các đại lý cho biết tồn kho đường tại Ấn Độ đang bắt đầu tăng cao, làm gia tăng áp lực lên chính phủ về việc cần phải cho phép xuất khẩu.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn tương lai trên ICE tăng do thị trường tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ nguồn cung thắt chặt tại nhà sản xuất hàng đầu thế giới - Việt Nam. Cà phê Robusta kỳ hạn tháng 9 tăng 2,3% lên 4.153 USD/tấn.
Các đại lý cho biết nguồn cung tại nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới - Việt Nam -vẫn khan hiếm, lượng xuất khẩu sẽ duy trì ở mức tương đối thấp.
Giá cà phê tại Việt Nam tiếp tục tăng trong tuần này do nguồn cung thắt chặt hơn do người trồng cà phê giảm lượng dự trữ, trong khi giá cà phê ở Indonesia giảm nhẹ.
Người trồng cà phê ở Tây Nguyên, vùng trồng cà phê lớn nhất của Việt Nam, đang bán hạt nhân xô với giá 120.000-122.000 đồng (4,71-4,79 USD) mỗi kg, tăng nhẹ so với mức 119.000-120.200 đồng của tuần trước.
Dữ liệu của chính phủ cho thấy Việt Nam đã xuất khẩu 902.000 tấn cà phê trong nửa đầu năm nay, giảm 10,6% so với một năm trước đó. Tuy nhiên, doanh thu xuất khẩu cà phê trong cùng kỳ lại tăng 34,5% lên 3,2 tỷ USD.
Một thương nhân ở vành đai cà phê cho biết: “Tuy nhiên, với tình trạng tồn kho đang cạn kiệt hiện nay, xuất khẩu hàng tháng sẽ tiếp tục giảm cho đến khoảng tháng 11 khi nguồn cung mới từ vụ mùa 2024/25 đến.”
Dữ liệu chính thức cho thấy trong 9 tháng đầu niên vụ 2023/24, Việt Nam đã xuất khẩu 1,25 triệu tấn cà phê. Các thương nhân ước tính tổng lượng xuất khẩu niên vụ này có thể lên tới 1,5 triệu tấn, giảm 20% so với niên vụ trước.
Giá cao su trên Nhật Bản giảm, với hợp đồng cao su giao tháng 12 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) lúc đóng cửa giảm 1,2 yên hay 0,36%, xuống 330,2 yên (2,05 USD)/kg.
Hợp đồng cao su tháng 9 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 135 nhân dân tệ xuống 14.910 nhân dân tệ (2.050,78 USD)/tấn.
Hợp đồng cao su giao tháng 8 trên sàn Singapore Exchange (SICOM) giảm 1% xuống 168,1 US cent/kg.
Giá tấm cao su hun khói tiêu chuẩn xuất khẩu của Thái Lan (RSS3) giảm 2,0% xuống 73,85 baht Thái (2,02 USD)/kg.
Đồng yên Nhật tăng 0,12% lên 161,53, được hỗ trợ bởi đồng đô la giảm sau khi dữ liệu kinh tế Mỹ tiếp tục cho thấy tốc độ tăng trưởng chậm lại.
Công ty BYD của Trung Quốc hôm thứ Năm đã khai trương một nhà máy sản xuất xe điện ở Thái Lan, nhà máy đầu tiên của hãng ô tô này ở Đông Nam Á, một thị trường xe điện khu vực đang phát triển nhanh chóng và BYD đã trở thành công ty dẫn đầu về thị phần. Cơ sở này sẽ có công suất sản xuất 150.000 xe mỗi năm.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
83,98
|
+0,10
|
+0,12%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
87,43
|
+0,09
|
+0,10%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
258,58
|
-1,55
|
-0,60%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,37
|
-0,05
|
-1,99%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
262,88
|
-0,55
|
-0,21%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.364,90
|
-4,50
|
-0,19%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.357,31
|
+0,62
|
+0,03%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
30,67
|
-0,17
|
-0,56%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
1.002,86
|
+1,44
|
+0,14%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
456,10
|
+2,75
|
+0,61%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.882,50
|
+14,50
|
+0,15%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.522,50
|
-25,50
|
-1,00%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.986,50
|
-4,50
|
-0,15%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
33.158,00
|
-205,00
|
-0,61%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
419,50
|
-1,75
|
-0,42%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
574,00
|
-7,00
|
-1,20%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
313,75
|
-3,00
|
-0,95%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
14,99
|
-0,07
|
-0,46%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.121,50
|
+8,50
|
+0,76%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
329,20
|
+0,90
|
+0,27%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
47,91
|
+1,19
|
+2,55%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
649,90
|
-2,80
|
-0,43%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
7.706,00
|
-82,00
|
-1,05%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
224,20
|
-3,10
|
-1,36%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
20,53
|
-0,08
|
-0,39%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
426,60
|
-11,85
|
-2,70%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
72,36
|
-0,34
|
-0,47%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
168,90
|
-2,70
|
-1,57%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|