Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh trở lại khi nhà đầu tư lạc quan rằng du lịch trong kỳ nghỉ lễ tại Trung Quốc sẽ thúc đẩy nhu cầu nhiên liệu tại quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 1,07 USD, hay 1,3%, lên 82,73 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 0,89 USD, hay 1,1%, lên 78,76 USD/thùng.
Tuần trước, cả hai loại dầu đều giảm hơn 5%, là tuần giảm đầu tiên trong 5 tuần khi Mỹ nhu cầu xăng tại Mỹ giảm so với cùng kỳ.
Sự phục hồi kinh tế một cách khó khăn của Trung Quốc sau đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến triển vọng nhu cầu dầu mỏ, mặc dù số liệu hải quan Trung Quốc cho thấy nhập khẩu dầu của họ trong tháng 3 đạt kỷ lục cao.
Dữ liệu về đặt các chuyến du lịch nước ngoài trong kỳ nghỉ lễ 1/5 sắp tới cho thấy lượng khách du lịch tới các nước Châu Á tiếp tục phục hồi, nhưng số lượng vẫn còn thấp xa so với mức trước đại dịch do giá vé máy bay tăng vọt và không đủ chuyến bay.
Nguồn cung dầu sắp tới khan hiếm do tổ chức các nhà sản xuất OPEC+ lên kế hoạch cắt giảm thêm nguồn cung từ tháng 5 cũng có thể nâng giá.
Theo một số nguồn tin, xuất khẩu dầu ở miền bắc Iraq có một vài dấu hiệu về việc sắp khôi phục trở lại sau vài tháng bế tắc, do thỏa thuận giữa Baghdad và chính quyền khu vực người Kurd (KRG) vẫn chưa được giải quyết.
Biên lợi nhuận của ngành lọc dầu ở Châu Á giảm do sản lượng kỷ lục từ các nhà máy lọc dầu hàng đầu của Trung Quốc và Ấn Độ, điều đó đang hạn chế nhu cầu nhập khẩu của khu vực này từ Trung Đông trong tháng 6.
Biên lợi nhuận lọc dầu ở châu Á đã suy yếu do sản lượng kỷ lục từ các nhà máy lọc dầu hàng đầu Trung Quốc và Ấn Độ, hạn chế nhu cầu của khu vực đối với nguồn cung từ Trung Đông trong tháng 6.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng vững do USD yếu đi, mặc dù giá ao động trong biên độ hẹp do các nhà đầu tư tuần này chuyển trọng tâm chú ý sang số liệu kinh tế Mỹ để tìm kiếm manh mối về quyết định chính sách của Fed.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.990,34 USD/ounce, trong khi vàng giao sau tăng 0,5% lên 1.999,80 USD/ounce
Giá vàng tăng trở lại sau báo cáo của Fed chi nhánh Dallas cho thấy hoạt động sản xuất tại Texas giảm trong tháng 4, cho thấy rõ tác động của chính sách thắt chặt lãi suất của Fed đối với kinh tế.
Đồng USD giảm 0,5% khiến vàng rẻ hơn cho người mua bằng ngoại tệ khác.
Giá vàng đã giảm xuống dưới 2.000 đô la vào tuần trước khi một số quan chức Fed có phát ngôn ủng hộ việc thắt chặt tiền tệ và sau khi các cuộc khảo sát cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ và khu vực đồng euro đã tăng tốc trong tháng Tư.
Các thị trường hiện nay dự đoán 91% Fed sẽ tăng lãi suất 25 điểm cơ bản tại cuộc họp vào ngày 2-3/5. Lãi suất tăng làm giảm sức hấp dẫn của vàng.
Các nhà đầu tư đang chờ đợi một thước đo lạm phát quan trọng được Fed tín nhiệm sử dụng trong quyết định chính sách, đó là chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân cốt lõi, cũng như tốc độ tăng trưởng GDP hàng quý của Mỹ, sẽ công bố vào tuần này.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim phiên này giảm 3,4% xuống 1.085,91 USD/ounce, palladium giảm 4,5% xuống 1.530,33 USD, riêng bạc tăng 0,7% lên 25,20 đô la.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất hơn 2 tuần do thị trường tập trung vào nhu cầu yếu từ Trung Quốc, trong khi USD yếu giúp hạn chế đà giảm.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,6% xuống 8.739 USD/tấn, trước đó có lúc xuống 8.726,5 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 5/4.
Thị trường giảm hy vọng nhu cầu đồng tăng tại Trung Quốc sau khi dỡ bỏ những hạn chế về Covid khi hoạt động tại lĩnh vực sản xuất này tăng chậm hơn dự kiến.
Về những kim loại cơ bản khác, giá kẽm giảm 1,6% xuống 2.675 USD/tấn sau khi chạm mức 2.664 USD, thấp nhất kể từ ngày 3 tháng 11. Giá nhôm giảm 0,6% xuống 2.382,5 USD sau khi chạm mức thấp nhất trong một tuần, và niken giảm 0,2% xuống 24.425 USD sau khi chạm mức yếu nhất kể từ ngày 14 tháng 4. Riêng giá thiếc tăng 0,1% lên 26.625 USD.
Giá quặng sắt giảm xuống mức thấp nhất thơn 4 tháng do nhu cầu thép yếu tại Trung Quốc thúc đẩy giảm sản xuất, trong khi các báo cáo mới nhất từ các công ty khai thác lớn cho thấy nguồn cung của thành phần sản xuất thép dồi dào.
Quặng sắt giao tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa giảm 3,1% xuống 721,5 CNY (104,69 USD)/tấn. Trước đó giá đã giảm xuống 715,5 CNY, mức thấp nhất kể từ ngày 21/12/2022. Tại Singapore, quặng sát giao tháng 5 giảm khoảng 4,9% xuống 102,8 USD/tấn, thấp nhất kể từ cuối tháng 11/2022.
Giá các loại thép tại Thượng Hải cũng giảm, thép thanh giảm 3,6% xuống mức thấp nhất kể từ tháng 11/2022, thép cuộn cán nóng giảm 3,7%.
Các chiến lược gia hàng hóa của ANZ cho biết: “Mặc dù đang vào mùa xây dựng (tại Trung Quốc), giá thép vẫn tiếp tục giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu và tồn kho tăng”.
Họ cho biết hơn 40% lò luyện thép ở Đường Sơn, thành phố sản xuất thép lớn nhất của Trung Quốc ở tỉnh Hà Bắc, đã đi vào bảo trì, làm giảm nhu cầu quặng sắt.
Nguồn cung quặng sắt ổn định cũng gây áp lực lên giá. Tập đoàn Fortescue Metals duy trì lượng xuất khẩu trong năm nay bất chấp một cơn bão trong tháng này làm gián đoạn xuất khẩu từ trung tâm quặng sắt của Úc.
Hãng Rio Tinto tái khẳng định dự báo lượng xuất khẩu quặng sắt hàng năm sau khi báo cáo xuất khẩu trong quý 1 từ Tây Úc tăng 15,4%, vượt dự kiến.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 8 tháng sau khi chính phủ thông báo Trung Quốc hủy bỏ một số giao dịch mua ngô của Mỹ. Các thương nhân cho biết việc hủy đơn mua cũng ảnh hưởng tới giá lúa mì và đậu tương, làm gia tăng lo ngại về nhu cầu yếu đối với hàng nông sản xuất khẩu của Mỹ bởi vụ thu hoạch lớn ở Brazil. Các nhà xuất khẩu tư nhân báo cáo rằng khách hàng Trung Quốc đã hủy mua tổng cộng 327.000 tấn ngô.
Kết thúc phiên, giá ngô trên sàn CBOT kỳ hạn tháng 7 giảm 7-3/4 US cent xuống 6,07-1/2 USD/bushel sau khi giảm xuống 6,04-1/4 USD/bushel, mức thấp nhất kể từ ngày 18/8/2022. Giá đậu tương cùng kỳ hạn giảm 13 US cent xuống 14,36 USD/bushel, trong khi giá lúa mì mềm đỏ vụ đông kỳ hạn tháng 7 giảm 16 US cent xuống 6,57 USD/bushel, thị trường không quan tâm tới lo ngại về việc kết thúc thỏa thuận cho phép vận chuyển ngũ cốc của Ukraine từ một số cảng Biển Đen và tình trạng mùa màng xấu đi ở Mỹ.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 đóng cửa tăng 1,08 US cent hay 4,3% lên 25,91 US cent/lb sau khi thiết lập mức cao nhất 11 năm tại 25,99 US cent; đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 13,7 USD hay 2% lên 690,1 USD/tấn.
Xuất khẩu đường của Brazil đạt trung bình 51.300 tấn/ngày cho tới tuần thứ 3 của tháng này, so với 69.300 tấn/ngày trong cả tháng 4 năm ngoái.
Một phái đoàn doanh nghiệp Ấn Độ thăm Nga từ ngày 24 tới 27/4 nhằm mở rộng xuất khẩu nông sản của Ấn Độ sang Nga – gồm đường và cà phê – lên tới 5 tỷ USD trong năm nay.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7 lúc đóng cửa tăng 62 USD hay 2,6% lên 2.444 USD/tấn, trước đó giá đã đạt cao nhất kể từ giữa năm 2011 tại 2.485 USD/tấn; cà phê arabica giao cùng kỳ hạn tăng 2 US cent hay 1% lên 1,9345 USD/lb, giá đã đạt cao nhất 6 tháng trong tuần trước.
Khối lượng cà phê tồn trữ tại Việt Nam gần như cạn kiệt, các đại lý cho biết gần như không có giao dịch nào được ký kết và nông dân đang giảm diện tích trồng cà phê để trồng chanh dây và sầu riêng.
Xuất khẩu của Brazil trong tháng 4 đang chậm lại so với tốc độ năm ngoái.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm phiheen thứ 2 liên tiếp với mức giảm mạnh nhất kể từ ngày 6/4, theo xu hướng giảm giá tại thị trường Thượng Hải và giá dầu yếu.
Kết thúc phiên, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Osaka giảm 4,3 JPY hay 2,1% xuống 205,8 JPY (1,53 USD)/kg. Tại Thượng Hải cao su cùng kỳ hạn giảm 285 CNY xuống 11.695 CNY (1.694,85 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn giao tháng 5 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore được giao dịch lần cuối ở mức 134,7 US cent/kg, giảm 1,5%.
Dự trữ cao su của sàn giao dịch Thượng Hải tính đến 21/4 giảm 0,9% so với một tuần trước.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

78,85

+0,09

+0,11%

Dầu Brent

USD/thùng

82,78

+0,05

+0,06%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

68.020,00

+1.880,00

+2,84%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,24

-0,03

-1,45%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

264,24

+1,06

+0,40%

Dầu đốt

US cent/gallon

253,14

+0,04

+0,02%

Dầu khí

USD/tấn

736,50

+3,00

+0,41%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

2.007,00

+7,20

+0,36%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.606,00

+69,00

+0,81%

Bạc New York

USD/ounce

25,53

+0,00

+0,00%

Bạc TOCOM

JPY/g

105,20

+1,50

+1,45%

Bạch kim

USD/ounce

1.088,81

-1,03

-0,09%

Palađi

USD/ounce

1.534,92

-5,08

-0,33%

Đồng New York

US cent/lb

397,30

+0,85

+0,21%

Đồng LME

USD/tấn

8.730,50

-64,00

-0,73%

Nhôm LME

USD/tấn

2.381,00

-15,50

-0,65%

Kẽm LME

USD/tấn

2.670,00

-49,00

-1,80%

Thiếc LME

USD/tấn

26.646,00

+52,00

+0,20%

Ngô

US cent/bushel

607,25

-0,25

-0,04%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

653,50

-3,50

-0,53%

Lúa mạch

US cent/bushel

337,75

-0,25

-0,07%

Gạo thô

USD/cwt

17,25

-0,06

-0,35%

Đậu tương

US cent/bushel

1.435,25

-0,75

-0,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

436,30

-1,10

-0,25%

Dầu đậu tương

US cent/lb

52,76

0,00

0,00%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

727,10

-0,60

-0,08%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.966,00

-17,00

-0,57%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

193,45

+2,00

+1,04%

Đường thô

US cent/lb

25,32

+0,98

+4,03%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

274,55

+3,10

+1,14%

Bông

US cent/lb

81,03

+0,34

+0,42%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

382,60

-15,50

-3,89%

Cao su TOCOM

JPY/kg

139,40

+4,30

+3,18%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)