Hoạt động mua vào của các thương nhân Ấn Độ đã củng cố giá than tại Nam Phi lên mức 275 USD/tấn. Nhu cầu của Ấn Độ đối với than của Nga đã giảm, điều này là do sự không chắc chắn về phương thức thanh toán giữa các bên.
Sau khi giá tăng mạnh gần đây, giá nguyên liệu tại Nam Phi dự kiến sẽ ít biến động hơn trong ngắn hạn, do lo ngại về cuộc khủng hoảng năng lượng châu Âu đang giảm bớt khi mùa đông sắp kết thúc.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay đối với than nhiệt lượng NAR 5500 tăng 7 USD/ tấn lên 252 USD/tấn FOB Qinhuangdao, do dịch COVID-19 bùng phát, cùng với mưa lớn ở các tỉnh phía Bắc và việc kiểm tra an toàn tại các mỏ đã cản trở sự gia tăng nguồn cung. Sự không chắc chắn về các chuyến hàng than, do tuyến đường sắt Daqin dự kiến sẽ được bảo trì vào tháng 4, cũng góp phần làm tăng giá.
Chỉ số 6000 của Australia giảm xuống 250 USD/tấn, theo xu hướng thị trường châu Âu cũng như sự quan tâm của khách hàng mua giảm, trong bối cảnh các vấn đề bao gồm: Gián đoạn giao hàng bằng đường sắt và gia tăng hàng đợi tàu tại các cảng của  Australia, do mưa lớn, bão và lũ lụt trong nước.
Sự biến động cao, điển hình cho tình trạng hiện tại của thị trường than toàn cầu, cũng ảnh hưởng đến giá than 5900 GAR của Indonesia, điều chỉnh xuống 210 USD/ tấn sau khi đạt mức cao lịch sử trong nửa đầu tháng 3 năm 2022. Kỳ nghỉ lễ Ramadan sắp tới (tháng 4 02-02/05/2022) có thể hạn chế hơn nữa nguồn cung từ Indonesia do sản lượng dự kiến giảm trong giai đoạn này.
Chỉ số than luyện kim của Australia giảm xuống dưới 580 USD/tấn trong bối cảnh nguồn cung giao ngay cho tháng 4 đã đủ và dự báo thời tiết thuận lợi ở Australia.
 

Nguồn: VITIC/https://thecoalhub.com/