Việc các nhà máy cá ngừ Thái Lan gia tăng sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng (GTGT) là một cách để tăng lợi nhuận mà không lạm thác cá ngừ. Đổi mới công nghệ và sản phẩm là giải pháp của ngành công nghiệp cá ngừ đóng hộp lớn nhất thế giới này, XK cá ngừ đóng hộp của nước này trong năm 2013 đạt 86 tỷ baht (tương đương 2,6 tỷ USD).

Do hạn chế về số lượng cá ngừ có thể NK, nên Thái Lan muốn cho thêm các thành phần, tập trung các giải pháp vào tính tiện lợi và chế biến sẵn. Điều này có nghĩa là cùng một lượng cá ngừ nhưng nước này có thể gia tăng được giá trị.

Tại Thái Lan và khu vực ASEAN, lượng tiêu thụ cá ngừ tại các thị trường rất nhỏ so với cá thu và cá sardine. Có nhiều dòng sản phẩm GTGT như cá ướp gia vị, ớt, sốt cay, và rau củ, và các dạng chế biến cá ngừ này có thể tăng lợi thế cạnh tranh.

Mặc dù ASEAN là một thị trường đơn lẻ mà tại đấy các loại hàng hóa, các loại hình đầu tư và dịch vụ có thể tự do dịch chuyển từ cuối năm 2015 trở đi, nhưng cũng khó có thể tác động lớn tới ngành cá ngừ Thái Lan.

Chỉ có khoảng 40.000 tấn cá ngừ đóng hộp và thăn cá ngừ được xuất sang thị trường ASEAN, trong khi có khoảng 70.000 tấn được xuất sang EU. Người tiêu dùng ASEAN quan tâm hơn đến giá cả bên cạnh các tiêu chí ưa chuộng khác như cá nguyên con, và cá ngừ đóng hộp chế biến khác.

Mặc dù thị trường XK có thể bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận của các nước ASEAN, nhưng ngành công nghiệp này có thể tăng NK nguyên liệu từ Myanmar, Indonesia và Việt Nam. Thái Lan không lo ngại khi các nước ASEAN khác có thể trở thành đối thủ về sản xuất cá ngừ vì có thể tăng cường thu mua nguyên liệu trong môi trường trao đổi thương mại dễ dàng hơn.

Các hoạt động logistics như dây chuyền lạnh, cảng biển, vận chuyển hàng hóa, các nhà máy chế biến đóng hộp và các khoản chi phí tại Thái Lan có thể cạnh tranh được với các nước khác. Bên cạnh đó, chi phí lao động hiện nay ở Thái Lan cao hơn so với các nước xung quanh, nhưng mọi chi phí khác liên quan đến sản xuất lại rẻ hơn.

Nguồn: Vasep