Năng lượng: Giá dầu giảm trong tuần
Chốt phiên giao dịch ngày 6/12, giá dầu giảm, vàng, cao su, cà phê và đường... đồng loạt tăng, đồng cao nhất 3 tuần, ca cao cao nhất 5,5 tháng và ngô cao nhất 5 tháng.
Giá dầu giảm hơn 1% trong phiên thứ Sáu, tính chung cả tuần cũng giảm do các nhà phân tích dự báo nguồn cung năm tới sẽ dư thừa trong khi do nhu cầu yếu, mặc dù OPEC+ trì hoãn việc tăng sản lượng và kéo dài thời gian cắt giảm sản lượng đến cuối năm 2026.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 97 US cent tương, đương 1,4%, xuống 71,12 USD/thùng,
dầu WTI giảm 1,1 USD, tương đương 1,6%, xuống 67,2 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm hơn 2,5% triong khi dầu WTI giảm 1,2%.
Số lượng giàn khoan dầu khí tại Mỹ trong tuần qua tăng dẫn đến sản lượng dầu từ nước sản lượng dầu thô lớn nhất thế giới tăng và gây áp lực giảm giảm.
Hôm thứ Năm tuần trước, OPEC+ đã quyết định lùi thời điểm tăng sản lượng dầu thêm 3 tháng đến tháng 4/2025 và kéo dài thời gian gỡ bỏ hoàn toàn việc cắt giảm sản lượng thêm 1, năm đến cuối năm 2026.
Bob Yawger, giám đốc năng lượng thuộc Mizuho, New York cho biết nhu cầu dầu toàn cầu suy yếu và triển vọng OPEC+ tăng sản lượng ngay khi giá tăng đã gây áp lực lên hoạt động giao dịch. "Họ chỉ đang chờ giá tốt lên và một khi có được điều đó, họ sẽ bắt đầu tăng sản xuất trở lại", Yawger cho biết.
OPEC+, đóng góp khoảng một nửa sản lượng dầu thế giới, đã có kế hoạch bắt đầu gỡ bỏ các lệnh cắt giảm sản lượng từ tháng 10 năm 2024, nhưng nhu cầu toàn cầu chậm lại - đặc biệt là từ nước nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới (Trung Quốc)- và sản lượng tăng ở những nơi khác đã buộc họ phải hoãn kế hoạch này nhiều lần.
"Mặc dù quyết định trì hoãn của OPEC+ củng cố các yếu tố cơ bản trong thời gian tới, nhưng có thể coi đây là sự thừa nhận ngầm rằng nhu cầu đang chậm lại", các nhà phân tích tại HSBC Global Research cho biết.
Ngân hàng Bank of America dự báo thặng dư dầu gia tăng sẽ kéo giá dầu Brent xuống mức trung bình 65 USD/thùng vào năm 2025, trong khi tăng trưởng nhu cầu dầu sẽ hồi phục lên 1 triệu thùng/ngày (bpd) trong cùng năm.
Trong khi đó, HSBC dự báo thặng dư thị trường dầu sẽ dưới 0,2 triệu bpd, giảm so với mức 0,5 triệu bpd trước đó.
Giá dầu Brent nhìn chung duy trì trong phạm vi hẹp 70-75 USD/thùng trong tháng qua, khi các nhà đầu tư cân nhắc các tín hiệu nhu cầu tại Trung Quốc giảm và rủi ro địa chính trị tại Trung Đông gia tăng.
"Câu chuyện chung là thị trường đang kẹt trong phạm vi khá hẹp. Trong khi những diễn biến trước mắt có thể đẩy giá ra khỏi phạm vi này theo hướng tăng trong thời gian ngắn, thì quan điểm về triển vọng trong trung hạn vẫn khá bi quan", nhà phân tích Tamas Varga của PVM cho biết.
Một yếu tố khác gây áp lực lên giá là số lượng giàn khoan của Mỹ, tăng lần đầu tiên sau tám tuần. Baker Hughes cho biết số lượng giàn khoan dầu đã tăng 5 giàn lên 482 trong tuần vừa qua, mức cao nhất kể từ giữa tháng 10, trong khi số lượng giàn khoan khí tăng 2 lên 102, mức cao nhất kể từ đầu tháng 11. Bất chấp sự gia tăng của giàn khoan, Baker Hughes cho biết tổng số lượng vẫn giảm 37, hoặc 6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Kim loại quý: Giá vàng giảm nhẹ trong tuần
Giá vàng tăng trong phiên thứ Sáu sau báo cáo tăng trưởng việc làm của Mỹ trong tháng 11/2024 cho thấy thị trường lao động tiếp tục giảm dần, tạo điều kiện cho Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất thêm 1 lần nữa.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 2.636,31 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2025 tăng 0,4% lên 2.659,6 USD/ounce. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá dầu giảm gần 1%.
Cũng trong phiên này, giá bạc giao ngay giảm 1,1% xuống 31 USD/ounce, nhưng vẫn tăng trong tuần. Giá bạch kim giảm 1,3% xuống còn 925,78 USD và giá palladium giảm 0,5% xuống 957,83 USD. Cả hai kim loại này đều có tuần giảm thứ hai liên tiếp.
Đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm sau báo cáo cho thấy bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ trong tháng 11/2024 tăng 227.000 việc làm, sau khi tăng 36.000 việc làm trong tháng 10/2024.
Triển vọng Fed cắt giảm lãi suất, bắt đầu bằng việc giảm nửa điểm cơ bản vào tháng 9, đã hỗ trợ đà tăng kỷ lục của vàng trong năm nay, vì lãi suất giảm làm tăng sức hấp dẫn của việc nắm giữ vàng không sinh lời. Các nhà giao dịch hiện thấy 87% khả năng Fed sẽ cắt giảm 25 điểm cơ bản tại cuộc họp tháng 12, so với khả năng 72% trước dữ liệu bảng lương.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và nhôm tăng trong tuần
Giá đồng phiên thứ Sáu đạt mức cao nhất 3 tuần do lượng tồn trữ tại Trung Quốc giảm và lo ngại về nguồn cung nguyên liệu thô sau khi thỏa thuận về phí xử lý được thống nhất.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,5% lên 9.122 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 9.178,5 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 15/11/2024. Giá đồng kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 0,2% lên 74.730 CNY (10.293,25 USD)/tấn.
Tính chung cả tuần, giá đồng tăng 1%, song tính từ thời điểm giá đạt mức cao nhất 4 tháng (10.158 USD/tấn trong ngày 30/9/2024) đến nay giá đồng giảm 10%.
Tin tức vào thứ Năm rằng công ty khai thác Chile Antofagasta và Jiangxi Copper đã đồng ý giảm đáng kể phí xử lý luyện đồng trong năm 2025 đã làm gia tăng mối lo ngại về nguồn cung đồng tinh luyện trên thị trường giao ngay.
Daria Efanova, giám đốc nghiên cứu tại công ty môi giới Sucden Financial, cho biết: "Đến năm 2025, chúng ta có thể thấy các nhà máy luyện kim phải vật lộn để kiếm lợi nhuận với mức phí xử lý và tinh chế mới. Các vấn đề về nguồn cung sẽ bắt đầu bùng phát vào nửa cuối năm 2025".
Một số nhà đầu tư đã đóng các vị thế trước khi kết thúc năm và giá đồng tăng đã gây ra một số hoạt động mua khống của các nhà đầu cơ, Efanova nói thêm.
Về các kim loại khác, giá nhôm phiên thứ Sáu trên sàn LME giảm 1,4% xuống 2.602 đUSD/tấn, kẽm giảm 1,6% xuống 3.069 USD/tấn, chì giảm 1,5% xuống 2.067,50 USD/tấn, thiếc giảm 0,3% xuống 29.080 USD/tấn, trong khi niken tăng 0,5% lên 16.050 USD/tấn.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm trong phiên thứ Sáu, tính chung cả tuần cũng giảm do làn sóng bổ sung hàng hóa vận chuyển bằng đường biển từ các nhà sản xuất thép tại Trung quốc giảm và lượng tồn trữ tại cảng cao, cũng như biên lợi nhuận thép giảm đã gây áp lực giá.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Đại Liên giảm 0,93% xuống 797,5 CNY (109,9 USD)/tấn; tính chung cả tuần giá giảm 0,5%. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Singapore giảm 0,29% xuống 103,7 USD/tấn; tính chung cả tuần giá giảm 0,9%.
Nông sản: Giá ngô và lúa mì tăng trong tuần, đậu tương giảm
Phiên thứ Sáu, giá ngô Mỹ tăng lên mức cao nhất 5 tháng do hoạt động đẩy mạnh mua vào và doanh số xuất khẩu của Mỹ tăng mạnh. Đậu tương cũng tăng trong gần suốt phiên theo xu hướng giá ngô và giá dầu thực vật nhưng giảm trở lại vào cuối phiên.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2025 phiên này tăng 5 US cent lên 4,4 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 28/6/2024; đậu tương kỳ hạn tháng 1/2025 không thay đổi ở mức 9,93-3/4 USD/bushel, trong khi lúa mì kỳ hạn tháng 3/2025 giảm xuống 5,57-1/4 USD/bushel.
Tính chung cả tuần, giá ngô tăng 1,6%, đậu tương giảm 0,4% và lúa mì tăng 1,7%.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn ICE tăng 0,61 US cent tương đương 2,9% lên 21,81 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn London tăng 2% lên 561 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đường cũng tăng.
Dữ liệu của chính phủ cho thấy Brazil đã xuất khẩu 3,39 triệu tấn đường vào tháng 11, giảm so với mức 3,64 triệu tấn của cùng kỳ năm ngoái.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE phiên thứ Sáu tăng 5,3% lên 3,3025 USD/lb, cà phê robusta trên sàn London tăng 5% lên 5.116 USD/tấn. Tính chung cả tuần giá cũng tăng. Trong phiên 29/11/2024 giá cà phê đạt 3,3545 USD/lb – cao nhất kể từ năm 1977.
Các nhà phân tích BMI dự kiến những lo ngại về nguồn cung đang diễn ra chủ yếu ở Brazil sẽ tiếp tục hỗ trợ giá trong suốt nửa đầu năm 2025. Các thương nhân địa phương ở Brazil cho biết nông dân đã bán hầu hết lượng hàng tồn trữ. Brazil đã xuất khẩu 4,75 triệu bao vào tháng 11, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng trong phiên thứ Sáu do thời tiết ẩm ướt tại nước sản xuất hàng đầu thế giới – Thái Lan – gây áp lực lên nguồn cung, trong khi các nhà đầu tư đánh giá tác động về luật chống phá rừng của Liên minh châu Âu.
Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 5,3 JPY tương đương 1,42% lên 378,4 JPY (2,52 USD)/kg; tính chung cả tuần, giá tăng 4,24%.
Cao su kỳ hạn tháng 5/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 275 CNY tương đương 147% lên 19.030 CNY (2.621,68 USD)/tấn; tính chung cả tuần, giá tăng 3,53%. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Singapore tăng 2,4% lên 208,4 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá 29/11
|
Giá 6/12
|
Giá 6/12 so với 5/12
|
Giá 6/12 so với 5/12 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
68,00
|
67,39
|
+0,19
|
+0,28%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
72,94
|
71,31
|
+0,19
|
+0,27%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
194,37
|
191,25
|
+0,63
|
+0,33%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,36
|
3,25
|
+0,18
|
+5,69%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
219,30
|
214,46
|
+1,20
|
+0,56%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.681,00
|
2.669,70
|
+10,10
|
+0,38%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.643,15
|
2.645,89
|
+12,52
|
+0,48%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
31,11
|
31,73
|
+0,14
|
+0,45%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
949,90
|
935,10
|
+3,55
|
+0,38%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
414,00
|
420,60
|
+0,95
|
+0,23%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.010,50
|
9.122,50
|
+48,00
|
+0,53%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.594,00
|
2.603,50
|
-35,50
|
-1,35%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
3.103,00
|
3.071,50
|
-47,00
|
-1,51%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
28.913,00
|
29.151,00
|
-14,00
|
-0,05%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
433,00
|
439,25
|
-0,75
|
-0,17%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
548,00
|
558,25
|
+1,00
|
+0,18%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
358,00
|
358,75
|
-0,50
|
-0,14%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
15,22
|
15,06
|
-0,02
|
-0,17%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
989,50
|
992,25
|
-1,50
|
-0,15%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
291,90
|
287,70
|
+0,30
|
+0,10%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
41,74
|
42,82
|
-0,15
|
-0,35%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
574,10
|
608,20
|
-0,80
|
-0,13%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
9.425,00
|
9.853,00
|
0,00
|
0,00%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
318,05
|
330,25
|
+16,75
|
+5,34%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
21,08
|
21,81
|
+0,61
|
+2,88%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
500,75
|
504,00
|
+9,30
|
+1,88%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
71,93
|
70,11
|
-0,99
|
-1,39%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
199,80
|
205,50
|
-4,20
|
-2,00%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|